10 loại tâm nghịch sanh tử luân hồi
10 loại tâm nghịch sanh tử luân hồi chính là nói chúng ta tu mười loại tâm này thì có thể siêu việt sáu cõi luân hồi, có thể tiêu tai giải nạn, có thể hóa giải vô số tai biến thế gian hiện tại.
Nghiệp chướng là gì? Nghiệp chướng chính là tạo tác ra những ác nghiệp này. Lần trước, tôi đã nói rõ với các vị, tâm luân hồi thì tạo nghiệp luân hồi, cho nên nhất định phải sám trừ. Việc này ở trên Kinh Phật nói cho chúng ta nghe “mười tâm nghịch, thuận”. Mười loại tùy thuận sanh tử, tâm tùy thuận sáu cõi luân hồi, lần trước chúng ta đã nói qua. Ngày nay chúng ta tiếp tục giảng mười tâm nghịch sanh tử. Chữ “nghịch” này nghĩa là trái ngược, chính là nói chúng ta tu mười loại tâm này thì có thể siêu việt sáu cõi luân hồi, có thể tiêu tai giải nạn, có thể hóa giải vô số tai biến thế gian hiện tại. Phật nói cho chúng ta nghe mười điều, người khác không tin tưởng, chúng ta không cần để ý, chúng ta chính mình phải tin tưởng, phải từ chính bản thân chúng ta nỗ lực mà làm. Việc này ở trên Kinh Phật cũng nói rất tường tận. Ngày nay chúng ta sống trên thế gian này, thế gian này là cộng nghiệp, trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp, cho dù địa cầu này gặp phải tai biến to lớn, như rất nhiều người nói: “Khi đại tai nạn này đến, người trên địa cầu này có thể chết phân nửa, có thể chết hai phần ba, vẫn còn một phần ba không chết, họ vẫn có thể vượt qua”. Đó chính là trong cộng nghiệp vẫn còn có biệt nghiệp. Người ngoài quốc nói, “người tin tưởng Thượng đế thì được cứu”, không tin Thượng đế vậy e rằng không có cách gì tránh khỏi tai nạn. Cách nói này chúng ta rất khó tán thành, vậy thì người không có việc ác nào mà không dám làm. Tin vào Thượng đế thì Thượng đế cũng có thể cứu giúp họ, cả đời làm người tốt Thượng đế không cứu họ, vậy thì Thượng đế quá bất công rồi. Phật nói có đạo lý, bạn có thể hồi tâm chuyển ý, diệt trừ tham-sân-si, tu phước, tu thiện, tích công bồi đức thì bạn liền có thể được cứu, bạn có thể được bảo đảm, có thể tiêu tai khỏi nạn. Nếu như bạn tiếp tục tham-sân-si-mạn, vẫn tiếp tục tạo ác, khi đại tai nạn đến thì e rằng sẽ không thể tránh khỏi. Cách nói này của Phật chúng ta nghe rồi vẫn cảm thấy tràn đầy đạo lý, có thể tiếp nhận. Cho nên, thật nếu như Thượng đế không nói đạo lý thì chúng ta cũng không bằng lòng theo, luôn phải có đạo lý.
Mười loại tâm nghịch sanh tử luân hồi
Thứ nhất, Phật khuyên bảo chúng ta phải “minh tín nhân quả”. Bốn chữ này rất hay. Minh là trí tuệ, không phải mê tín. Đối với chân tướng sự thật, bạn phải làm cho rõ ràng, tường tận, thông suốt, thấu đáo, bạn chân thật tin tưởng đối với nhân quả này. Phật nói tất cả Kinh đều không rời nhân quả, thế gian pháp không thể thoát khỏi nhân quả, Phật pháp cũng không thể thoát khỏi nhân quả. Nhân quả tuyệt đối không phải mê tín. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, đó là nhân quả. Quyết định không thể trồng đậu được dưa, trồng dưa được đậu, không hề có đạo lý này, vì nhân quả không tương ưng. Cho nên nhân thiện nhất định được quả thiện, nhân ác nhất định cảm ác báo, làm gì sai chứ! Thế nhưng có lẽ chúng ta sẽ xem thấy có một số hiện tượng trong xã hội dường như không hề tương ưng với những gì Phật pháp đã nói. Chúng ta xem thấy một số người ác hưởng phước, người thiện thì bị chịu tội, đời sống vô cùng khốn khổ, việc này dường như không phù hợp với sự thật nhân duyên quả báo mà Phật pháp đã nói. Đó là do bạn đối với sự thật và luân lý của nhân quả chưa tường tận, chưa được thông suốt, bốn chữ “minh tín nhân quả” bạn không hiểu được nên bạn mới sanh ra hiểu lầm.
Nhân quả thông cả ba đời, điểm này chúng ta nhất định phải tin tưởng, phải khẳng định. Bất cứ một chúng sanh nào cũng có đời quá khứ, có đời hiện tại và còn có đời tương lai, nhân quả thông cả ba đời. Đời trước tu thiện tích đức, đó là trồng nhân thiện thì đời này họ được giàu sang phú quý. Cái họ hưởng là phước báo. Do quả này của họ quá lớn, cho nên đời này cho dù họ tạo ra rất nhiều tội nghiệp, nhưng phước thừa của họ vẫn chưa hưởng hết, cho nên họ vẫn đang tiếp tục hưởng phước. Thế nhưng các vị phải nên biết, ngay trong đời này họ chỉ hưởng phước, lại không chịu tu phước mà còn tạo tội nghiệp, thì phước báo tuy lớn nhưng sẽ tiêu hao rất nhanh. Phước báo của họ rất lớn, có thể ngay trong đời này của họ mãi đến lâm chung đều là phước báo lớn hiện tiền, tội báo của họ chưa hiện ra, thế nhưng đời sau của họ thì thê thảm. Việc này chúng ta thường hay xem thấy. Còn có một số phước báo rất lớn nhưng không lớn như những người vừa nói trên, họ hưởng phước nhưng không chịu tu phước, hơn nữa còn đang ở đó tạo ác, vậy phước của họ hưởng 20-30 năm thì cũng sẽ không còn. Việc này hiện tại thông thường gọi là phá sản, họ bị sụp đổ, cuối đời của họ không bảo đảm. Đó là nói phước báo của họ ở ngay trong mấy mươi năm đó thảy đều tiêu hao hết. Chúng ta ở trong xã hội xem thấy rất nhiều hiện tượng này. Còn người tu phước mà cả đời này cuộc sống rất là khổ cực, đó là do đời quá khứ không có tu phước, hiện tại họ phải chịu quả báo này. Ngày nay họ tu phước tích thiện, trồng nhân tốt, thì đời sau họ được phú quí. Cho nên, người phú quí không phải đời đời phú quí, người nghèo khổ cũng không phải đời đời nghèo khổ, tạo hóa đối với người rất công bình. Người đời này hưởng phước thì đời sau chịu tội, người đời này chịu tội thì đời sau hưởng phước. Nhân duyên quả báo không hề sai lọt.
Nếu như bạn hiểu rõ đạo lý này, thông đạt chân tướng sự thật thì ngay trong đời này chăm chỉ nỗ lực đoạn ác tu thiện, sám trừ nghiệp chướng, quả báo đó của bạn ngay đời này liền có thể hiện tiền, liền có thể hưởng thụ được. Đó là người thông minh, người sáng suốt. Cho nên, nếu như bạn chân thật hiểu rõ bốn chữ “minh tín nhân quả”, chịu đi làm, thì như quá khứ tiên sinh Viên Liễu Phàm đời nhà Minh đã thay đổi được vận mạng của chính mình. Chúng ta xem thấy những thứ ông mong cầu trong mạng của ông đều không có, trong mạng của ông không có công danh (công danh này dùng lời hiện đại mà nói chính là học vị), ông đi học không lấy được học vị. Trong mạng không có thì dù sách đọc có tốt hơn, đi thi cũng không đậu, vậy có cách nào đây? Vì trong mạng không có. Nếu trong mạng bạn có, sách học không được tốt lắm, khi đi thi thì cũng vừa vặn gặp được mấy đề mục mà bạn biết, thì bạn liền thi đậu. Đây là do trong mạng của bạn có, trong mạng của bạn không có thì không còn cách nào.
Tiên sinh Liễu Phàm trong mạng không có học vị cao. Học vị của ông chỉ đến tú tài, nhưng bạn thấy sau cùng ông lấy được bằng tiến sĩ. Tiến sĩ là học vị cao nhất. Nếu như dùng học vị của trường học hiện nay để so sánh, thì tú tài bằng với học sĩ, cử nhân bằng với thạc sĩ, tiến sĩ bằng với cao học. Ông lấy được học vị cao học là do ông đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức mà cầu được, chân thật “Phật thị môn trung hữu cầu tắc ứng”. Trong mạng của ông không có con cái, ông cũng cầu được con trai, kết quả sau đó ông sanh được hai đứa con trai. Hai đứa con trai đều ngoan, đều là hiếu tử hiền tôn. Trong mạng tuổi thọ không dài, chỉ có 53 tuổi. Ông tuyệt nhiên không có cầu tuổi thọ, tuy không có cầu trường thọ, thế nhưng do tích công bồi đức nên tự nhiên liền được tăng thêm tuổi thọ, ông sống đến hơn 70 tuổi. Trong mạng không có nhưng có thể cầu đến được, đó là chân thật cầu được.
Hiện tại các vị đã xem thấy, rất nhiều người đến chùa miếu thắp hương, bái Phật dập đầu để cầu thăng quan phát tài. Khi vừa cầu liền được thì cho là Phật Bồ Tát rất linh, kỳ thật việc này thế nào vậy? Vì trong mạng của bạn có, cũng vừa lúc vào năm đó bạn sẽ phát tài, bạn cầu cũng vừa đúng lúc gặp được. Sự việc này là như vậy, không phải Phật Bồ Tát bảo hộ, mà đó là trong mạng có, cũng vừa lúc gặp được. Giả như Phật Bồ Tát thật linh nghiệm như vậy thì mỗi một người cầu nguyện, mỗi một người đều được phát tài, vậy mới đúng! Một trăm người cầu nhưng chỉ có một người phát, còn chín mươi chín người kia không phát, tôi không tin là do Ngài linh. Việc này đầu óc phải tường tận một chút, làm gì mà mê hoặc điên đảo đến như vậy? Mỗi người cầu nguyện thì mỗi người đều phát; mỗi người cầu thăng quan thì mỗi người đều thăng quan, vậy mới gọi thật linh. Bạn xem thấy có mấy người cầu được? Ngay trong một vạn người đi cầu nguyện, chân thật có được chỉ một hai người mà thôi, còn nhiều người đều không cầu được. Phật dạy cho chúng ta là thật, một người cầu thì một người nhận được, một vạn người cầu thì một vạn người nhận được, một người cũng không thể sót, đó là thật, nó có đạo lý trong đó. Chúng ta phải chân thật tin sâu đối với nhân quả. Học Phật phải từ ngay nơi đây mà bắt đầu, phải từ ngay nơi đây mà học.
Ở mọi nơi, tôi đều khuyên bảo mọi người học Phật, tôi đều dạy người phải từ “Liễu Phàm Tứ Huấn” mà học, tôi không dạy họ phải bắt đầu từ bộ Kinh luận nào. Trước tiên bạn đem “Liễu Phàm Tứ Huấn” đọc qua ba trăm biến. Phải hạn định thời gian đọc cho xong, không thể nói một tháng, nửa tháng đọc qua một lần, vậy thì không ích gì, chí ít mỗi ngày đọc một lần, đọc một năm thì bạn liền có tâm đắc. Vì sao vậy? Bạn sẽ tin tưởng, bạn hiểu được rồi, lý giải được rồi, đối với đời sống liền có sự thay đổi. Bạn phải mỗi ngày đọc qua một lần thì mới hữu dụng. Đạo lý này cũng là ở trong giáo học chúng ta đã đề xướng “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”, nó sẽ khởi tác dụng. Nếu như chúng ta đọc gián đoạn thì sẽ không có hiệu quả. Phải lấy điều này làm nền tảng. Ngày trước Đại Sư Ấn Quang dạy người cũng như vậy. Đại Sư Ngài cả đời toàn tâm toàn lực đề xướng “Liễu Phàm Tứ Huấn”, đề xướng “Cảm Ứng Thiên”, đề xướng “An Sĩ Toàn Thư”, ba loại này đều là môn sám hối chân thật, chính là dạy chúng ta tu “Sám trừ nghiệp chướng” của Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Bạn đem nó đọc thuộc, chân thật hiểu rõ rồi, chân thật thấu suốt rồi, bạn đối nhân xử thế tiếp vật, cách nhìn cách nghĩ của bạn trong tự nhiên sẽ chuyển đổi lại, chân thật sẽ đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Bạn không có công lực của ba trăm biến này thì đoạn ác tu thiện bạn rất khó làm được. Vì sao vậy? Tập khí ác từ vô thỉ kiếp đến nay nên làm gì dễ dàng chuyển đổi lại được. Cho nên, “minh tín nhân quả” này của Phật, chữ “Minh” này là then chốt vô cùng quan trọng. Bạn phải có trí tuệ, tuyệt đối không phải là mê tín.
Thứ hai, “Tự hổ khắc trách”. Sau khi chân thật tin tưởng nhân quả, bạn tự nhiên sẽ không đùn đẩy trách nhiệm. Không nên nói chính mình tạo tác tội nghiệp đều là do người khác, những việc chính mình làm sai thì đem trách nhiệm này đẩy qua cho người khác, “là người khác làm đó, không phải tôi làm”. Bạn bảo một người đi giết người, còn nói là do hắn giết chứ không phải tôi giết, cái trọng tội này vô cùng sâu nặng. Ngay đến sự việc như vậy còn lẩn tránh, huống hồ ngày nay chúng ta xem thấy trong xã hội, xem thấy tai biến khắp trên địa cầu, họ làm sao có thể cho rằng “đó là trách nhiệm của tôi”, không thể nào!
Mỗi một đồng tu chúng ta chính mình tỉ mỉ nghĩ xem, bạn ở ngay trong một đời này đã sống được mấy mươi năm rồi, cũng xem thấy rất nhiều người và sự vật, có người nào có thể đem những tai biến trên địa cầu này của ngày hôm nay cho rằng là trách nhiệm của chính mình không? Không chỉ không thấy qua, bạn nghe cũng chưa từng nghe qua. Nếu như có nghe nói qua, thì cho rằng làm gì có loại người hồ đồ này, tai hại tự nhiên này có liên quan gì với bạn, vì sao bạn lại gánh vác trách nhiệm này chứ? Kỳ thực chân thật là trách nhiệm của chính mình. Đặc biệt là bốn chúng đệ tử nhà Phật chúng ta, tại gia, xuất gia đều như vậy. Người xuất gia chúng ta không giống như một người xuất gia, không hề đem công việc của người xuất gia làm cho tốt, cho nên mới vướng phải tai biến của thế gian này. Đó chẳng phải Phật đã nói “y báo tùy theo chánh báo chuyển” sao? Chánh báo này của chúng ta không tốt, cho nên cảm đến y báo liền có tai nạn, đương nhiên là trách nhiệm của chúng ta. Người tại gia học Phật cũng không ngoại lệ, không luận bạn trải qua đời sống như thế nào, từ nơi công việc hay nghề nghiệp nào, bạn không ở ngay trong công việc của bạn, không ở ngay trong nghề nghiệp của bạn mà hành Bồ Tát đạo. Học Phật không gì khác hơn là chúng ta phải hành Bồ Tát đạo. Cái gì gọi là Bồ Tát đạo? Làm gương tốt cho tất cả chúng sanh. Người xuất gia phải làm tấm gương tốt cho người xuất gia, người tại gia phải làm tấm gương tốt cho người tại gia. Bạn là người vợ trong gia đình thì là một tấm gương tốt cho những người vợ trong gia đình; bạn buôn bán mở một cửa hàng, cửa hàng này của bạn là một gương tốt cho tất cả các cửa hàng. Đoan chánh lòng người, đoan chánh xã hội, thì y báo này đương nhiên sẽ chuyển đổi được. Đệ tử Phật hành Bồ Tát đạo không luận là từ nơi một nghề nghiệp nào, nhất định phải phát tâm là ta dùng phương thức đời sống này, dùng nghề nghiệp này phục vụ xã hội. Chúng ta là cống hiến, là phục vụ xã hội, không có tâm tham, không tham danh lợi, hoàn toàn là phục vụ, vậy thì đúng, đó chính là Bồ Tát rồi. Nếu như là lấy danh lợi làm mục đích thì đó là tâm phàm phu, lấy phục vụ làm mục đích là tâm Bồ Tát. Cùng làm một công việc như nhau, Bồ Tát cùng phàm phu ở nơi công việc trong cuộc sống không hề khác biệt, nhưng cách dùng tâm trên quan niệm không giống nhau, một người là vì chính mình, còn một người là vì xã hội, vì chúng sanh, không vì chính mình.
Khu vực Singapore này là đất phước. Vì sao nói là đất phước? Bồ Tát nhiều. Làm sao biết được Bồ Tát nhiều? Chúng ta ở nơi đây giảng Bồ Tát Kinh, bạn xem thấy nhiều Bồ Tát như vậy đến nghe, Bồ Tát nhiều! Bạn ở nơi khu vực khác giảng Kinh này không có được mấy người nghe. Khi ở Hoa Kỳ giảng Kinh có thể đến được một trăm người thì pháp duyên này rất thù thắng rồi. Có một năm, Pháp sư Diễn Bồi nói với tôi là Thẩm Gia Trinh mời ông đến Hoa Kỳ, vào lúc đó ông không được rõ cho lắm tình hình của Hoa Kỳ, nên rất hoan hỉ, đem tất cả những gì có ở được Singapore bỏ hết, di dân đến Hoa Kỳ. Ông di dân được xem là rất thuận lợi (giấy mời di dân ngay trong ngày liền đến. Tôi di dân đến Hoa Kỳ thì giấy mời di dân cũng là trong ngày liền đến, chỉ nửa giờ thì nhận được. Trường hợp này của chúng tôi là rất ít, rất hiếm). Ở bên đó giảng Kinh nói pháp, địa điểm ông thuyết pháp tôi có đi đến, chùa Đại Giác ở New York là đạo tràng của cư sĩ Thẩm Gia Trinh. Hôm đó giảng Kinh đến được hơn năm mươi người. Sau khi giảng xong không ai không tán thán: “Pháp sư à! Pháp duyên của Ngài thù thắng, hôm nay đến nhiều người như vậy”. Pháp sư Diễn Bồi nói: “Tôi nghe lời nói này rồi nước mắt từ trên đầu chảy xuống đến chân. Tôi ở Singapore giảng Kinh có mấy ngàn người đến nghe. Đến nơi đây chỉ có năm mươi người thì pháp duyên đã quá thù thắng rồi, mọi người đều tán thán. Tôi vội vàng quay về lại Singapore, thẻ xanh ở Hoa Kỳ không cần nữa, bỏ luôn”. Đó đều là sự thật. Vào ngày nay, dù bạn giảng Kinh nói pháp ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đại khái ở Singapore có số người đến nghe nhiều nhất, ở Đài Loan cũng có số người như vậy. Đương nhiên nếu như mỗi ngày giảng Kinh mà duy trì đạo tràng này với số người nhiều như vậy là việc không dễ. Thỉnh thoảng diễn giảng một lần thì sẽ có mấy ngàn người đến tham gia. Một năm được một lần nhộn nhịp, náo nhiệt, mọi người đến tham dự, đến xem thử; mỗi ngày đến giảng Kinh thì sẽ không náo nhiệt vậy. Đó chính là Bồ Tát chân thật, muốn đến nơi đây để học Bồ Tát đạo, tu hạnh Bồ Tát. Đó là Bồ Tát thật, không phải Bồ Tát giả.
Tôi ở nơi đây lúc ngưng lúc giảng cũng đã giảng được mười năm rồi. Ngay trong mười năm này, thính chúng của chúng ta có tăng, không giảm, mỗi năm đều nhiều hơn một số người. Cho nên, tôi nói ở nơi đây Bồ Tát nhiều, đích thực là có người chân thật muốn học Bồ Tát hạnh, muốn học Bồ Tát nghiệp. Bồ Tát chân thật nhất định là tự hổ thẹn, cho nên trách cứ chính mình là “ta tu chưa được tốt, cho nên kéo theo những chúng sanh này chịu tội chịu khổ. Ta tu chưa được tốt, làm cho thế gian này có tai biến nhiều đến như vậy, khiến cho tất cả chúng sanh lo buồn”. Phải trách cứ chính mình, chính mình cần phải nỗ lực, càng phải chăm chỉ gia công tu hành. Cho nên, sự hối trách này là một động lực rất lớn đối với chính mình, thúc đẩy chính mình dõng mãnh tinh tấn, đoạn ác tu thiện.
Người thế gian làm việc rất cần lao, động lực nào thúc đẩy họ vậy? Là danh lợi. Bạn nỗ lực mà làm thì bạn có thể kiếm được rất nhiều tiền, vì món tiền đó mà liều mạng làm việc. Tiền không thể tin được, bạn thấy hiện tại kinh tế đang suy thoái, lập tức bị thâm hụt, gian nan khổ cực kiếm được nhiều như vậy bỗng chốc thì không còn. Nếu như họ phát ra tâm Bồ Đề, “ta vì xã hội, vì đại chúng mà nỗ lực làm việc”, vậy thì họ vĩnh viễn sẽ không bị hao hụt, mãi mãi là tinh tấn, mãi mãi hướng lên trên, chân thật là tích đại công, tích đại đức, quả báo thù thắng không thể nghĩ bàn. Những sự cùng lý này chúng ta đều phải rõ ràng tường tận. Nhất định khi xem thấy hiện tượng bên ngoài này thì chính mình phải sanh tâm hổ thẹn, chính mình phải trách cứ chính mình.
Thứ ba, Phật nhắc nhở chúng ta “ác đạo đáng sợ”. Đó là ba đường ác mà trên Kinh đã nói. Đường ác rất dễ bước vào nhưng rất khó đi ra. Ba đường ác do nguyên nhân nào mà hình thành? Phật nói với chúng ta: “Đường ngạ quỷ là do lòng tham, tâm tham nặng đọa vào đường ngạ quỷ; đường địa ngục là tâm sân hận; đường súc sanh là tâm ngu si”. Tâm ngu si chính là đối với tà-chánh, thật-giả, thiện-ác, lợi-hại đều không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ, đó là ngu si. Thế gian này, người tốt người xấu đều không phân rõ ràng, việc tốt việc xấu cũng không tường tận, luôn luôn là làm những việc điên đảo, vậy thì quả báo sẽ ở đường súc sanh. Có một số vị cho rằng đường súc sanh dường như tuổi thọ không quá dài, thì sao không dễ dàng thoát khỏi đường súc sanh chứ? Đường súc sanh có một số loài tuổi thọ không dài, thế nhưng cũng có loài tuổi thọ rất dài. Cho dù tuổi thọ không dài, họ cũng không dễ gì thoát khỏi. Súc sanh ngu si, nó chấp trước cái thân tướng đó chính là nó, sau khi chết vẫn trở lại súc sanh, rất khó đi đến được đường khác để thọ sanh. Việc này thì sẽ rất phiền phức. Thí dụ trên Kinh Phật nói với chúng ta một câu chuyện, năm xưa khi Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, Kỳ Viên Tịnh Xá có một ít công trình đang thi công, Phật xem thấy dưới đất có một ổ kiến liền mỉm cười. Những học trò đi theo bên cạnh Phật liền hỏi: “Vì sao Ngài mỉm cười những con kiến này?”. Phật liền nói: “Đàn kiến này rất ngu si, bảy vị Phật xuất thế mà nó vẫn chưa thoát khỏi thân kiến”. Chúng ta không nói nhiều, chỉ nói một vị Phật xuất thế là ba A Tăng Kỳ kiếp, bảy vị Phật xuất thế là hai mươi mốt A Tăng Kỳ kiếp mà nó vẫn còn làm kiến. Không phải thọ mạng của nó dài đến như vậy, mà khi kiến chết rồi đầu thai lại vẫn làm kiến, đời đời kiếp kiếp làm kiến, không hề nghĩ đến có thể thay đổi một cái thân khác. Đường súc sanh cũng không dễ gì thoát khỏi cái thân súc sanh.
Tuổi thọ của đường ngạ quỷ dài. Trên Kinh Phật nói với chúng ta, một ngày ở trong cõi quỷ là một tháng ở nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của cõi quỷ cũng giống như cách tính của nhân gian chúng ta vậy, một năm có ba trăm sáu mươi ngày, mười hai tháng; ba trăm sáu mươi ngày tính là một năm, thế nhưng phải ghi nhớ, một ngày của họ là một tháng của nhân gian chúng ta. Tuổi thọ của ngạ quỷ đoản mạng cũng là một ngàn tuổi, mạng dài thì là đến ngàn ngàn tuổi, có gì đáng sợ hơn không? Bạn đọa vào đường ngạ quỷ thì lúc nào bạn mới có thể ra được? Nếu tính ra cũng phải đến mấy vạn năm sau, bạn mới có thể thoát ra được. Những ngày tháng đó thật khốn khổ. Trong cõi quỷ không nhìn thấy mặt trời, trăng, sao, ba ánh sáng này đều không nhìn thấy, bầu trời là một màu tối đen. Mấy ngày chúng ta không nhìn thấy mặt trời thì đã rất khó chịu rồi, nếu bạn ở trong cõi quỷ phải chịu mấy vạn năm không nhìn thấy mặt trời, bạn nói xem những ngày tháng đó có khổ không? Đời sống trong cõi quỷ rất khủng khiếp.
Cho nên ở trong ba đường ác, cõi quỷ gọi là đao đồ, cõi súc sanh gọi là huyết đồ, cõi địa ngục gọi là hỏa đồ. Đường súc sanh gọi là huyết đồ, vì súc sanh không có chết yên, đều là máu chảy, con lớn ăn con nhỏ, ăn nuốt lẫn nhau, hay nói cách khác, đều không thể chết tốt. Việc này chúng ta phải nên biết. Cõi quỷ vì sao gọi là đao đồ? Đao là hình dung thường hay có người đến giết hại họ, thân tâm của họ thường bất an, thường hay sống trong khủng khiếp, ý nghĩa chính là như vậy. Địa ngục gọi là hỏa đồ, vì địa ngục là một biển lửa, thật quá khổ. Tuổi thọ của địa ngục trong Kinh Phật nói không giống nhau, cách nói không giống nhau này tuyệt nhiên không phải Phật nói sai. Cách nói ở trong Kinh này cùng với cách nói trong Kinh kia có sự khác biệt về tuổi thọ rất lớn, bởi vì chủng loại địa ngục không như nhau; có một số tuổi thọ trong địa ngục rất dài; có một số chịu khổ trong địa ngục tương đối nhẹ, nên tuổi thọ tương đối ngắn một chút.
Chúng ta căn cứ trên kinh đã nói, một ngày ngắn nhất ở trong địa ngục là hai ngàn bảy trăm năm ở nhân gian chúng ta. Đất nước chúng ta ở trên thế giới này được gọi là nước văn minh cổ xưa, chúng ta có lịch sử năm ngàn năm thì so với trong địa ngục vẫn chưa đến hai ngày. Trên Kinh Phật đã nói, một năm ở trong địa ngục cũng là ba trăm sáu mươi ngày. Các vị phải ghi nhớ, một ngày của họ là hơn hai ngàn bảy trăm năm chúng ta. Thọ mạng của họ, yểu mạng cũng là một vạn tuổi, trường thọ thì đến vạn vạn tuổi. Rất là khủng khiếp! Cho nên, mỗi giờ mỗi phút chúng ta nhất định phải đề cao cảnh giác, không nên tạo nghiệp địa ngục, nghiệp của ba đường đều không thể tạo. Vì sao mà đọa lạc vào ba đường? Phật nói cho chúng ta nghe mười ác nghiệp. Mười ác nghiệp nghiêm trọng nhất thì đọa địa ngục, kế đến đọa ngạ quỷ, nhẹ nhất là đến súc sanh. Mười ác nghiệp là:
Thân tạo ra sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Miệng thì nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt, nói ác khẩu. Nói dối là không thành thật, nói sai sự thật; nói hai chiều là khiêu khích thị phi; nói thêu dệt là lời nói ngon ngọt, đều là mê hoặc người, lừa gạt người; nói ác khẩu là lời nói thô lỗ.
Ý nghiệp là tham, sân, si.
Giả như mỗi ngày chúng ta tạo ra mười loại nghiệp này, thân thì sát-đạo-dâm, miệng nói dối, nói hai chiều, nói thêu dệt, ác khẩu, trong lòng tràn đầy tham-sân-si, vậy thì tiền đồ của bạn quyết định đến ba đường ác, không cần đi hỏi người nào nữa! Rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. Ba đường ác thì đến đường nào vậy? Bạn chính mình phải tỉ mỉ thử nghĩ xem thì cũng biết. Càng nghĩ càng đáng sợ, cho nên chúng ta nhất định không làm việc này. Không những chúng ta không chịu đọa ba đường ác, mà ba đường thiện ở trong sáu cõi chúng ta cũng không cần. Vì sao vậy? Không cứu cánh. Bạn muốn tu phước báo nhân thiên, đời sau được thân người lại hưởng phước, thế nhưng người hưởng phước có rất ít người có đầu óc tỉnh táo, rất ít người không mê hoặc, vậy thì phước của bạn hưởng hết rồi phải làm sao? Thế gian này người có phước báo rất nhiều, chúng ta cũng có lúc có cơ hội gặp được, xem thấy họ vừa hưởng phước vừa tạo tội nghiệp, muốn giúp cho họ mà không thể giúp, vì sao vậy? Khi bạn khuyên họ, họ nghe được mấy câu nói rồi liền nhìn trước nhìn sau, đem lời nói của bạn bỏ ngoài tai, căn bản là không chịu nghe, căn bản là không muốn bạn nói thêm nữa, vậy thì bạn còn cách nào không? Họ vẫn tùy theo tập khí của họ, tùy theo nghiệp chướng của họ mà trải qua đời sống cuồng vọng tham dục, mãi đến đem phước báo của đời quá khứ của họ đã tu được tiêu hao hết sạch, sau đó đi đến ba đường ác để đối chất. Họ chỉ làm những việc như vậy. Chúng ta xem thấy họ thật đáng thương nhưng không cách gì cứu. Cho nên, nhất định phải thường giữ tâm khiếp sợ đường ác.
Thứ tư, Phật dạy chúng ta “bất phú hà tì”. Chính mình tạo tác lỗi lầm không nên che giấu, mà phải phát lồ sám hối, “tôi làm sai rồi!”, có dũng khí nói ra cho người khác nghe. Người khác biết rồi trách cứ bạn vài câu, mắng bạn vài tiếng thì tội này của bạn đã báo hết, cho nên gọi là “trọng tội nhẹ báo”. Tốt rồi, tội trả hết, tốt quá! Làm việc thiện thì đừng để người khác biết, vì để người khác biết, người này tán thán bạn vài câu, người kia tán thán bạn vài câu, bạn đã hưởng hết rồi, thiện không còn thì thiệt thòi này sẽ rất lớn. Cho nên, thánh nhân thế xuất thế gian dạy chúng ta phải tích âm đức. Thế nào gọi là âm đức? Âm là không để cho người khác biết, chúng ta đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức không nên để người khác biết, không nên để người tán thán. Địa vị của chính chúng ta càng thấp càng tốt, làm công đức có tốt hơn cũng như là không hề có làm việc gì, chính mình cung kính khiêm hạ đối với tất cả mọi người, vậy thì tốt, công đức mà chính chúng ta tích được có thể bảo toàn. Bảo toàn công đức thì tương lai quả báo sẽ lớn, sẽ thù thắng. Người thông minh nhất, người có trí tuệ nhất thì đem phước báo cả đời của họ tu được hưởng vào lúc nào? Vào lúc lâm chung. Lúc lâm chung hưởng phước gì? Không có bệnh khổ, đó là đại phước báo. Lâm chung không bị bệnh, lâm chung rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, có thể đứng mà ra đi, có thể ngồi mà ra đi, biết được chính mình đi đến nơi nào. Nơi đi đến thù thắng nhất là Thế giới Cực Lạc. Sau khi nghiệp báo của cái thân này đã trả hết, thì đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đến Thế giới Cực Lạc chính là làm Phật. Việc này ở trong mười pháp giới là chọn lựa tối cao. Chọn lựa làm Phật, không chọn lựa sanh thiên, đương nhiên cũng sẽ không chọn lựa đời sau đến nhân gian để hưởng phú quý, vì phú quý là giả. Chúng ta xem lịch sử ra sẽ thấy những hoàng đế, tướng quân trải qua nhiều thời đại, khi còn ở đời thì oanh oanh liệt liệt nhưng không quá một đời, ngày nay ở đâu vậy? Đều chôn vào lòng đất. Họ có gì để đời đâu? Nếu bạn thấy tường tận chân tướng sự thật này thì công danh phú quý của thế gian bạn liền buông bỏ, không ý nghĩa gì. Hưởng những phước báo này của thế gian có rất nhiều khổ báo. Từ xưa đến nay có vị quốc vương nào không khổ chứ? Có vị nào cả đời làm vua có thể vừa lòng mãn ý? Không có người nào! Tuy hưởng phước nhưng trong lòng cũng lo lắng bất an, không thể có một đời an tâm thư thích. Cho nên, lỗi lầm không nên che giấu, càng không thể đùn đẩy cho người khác, phải phát lộ sám hối (lộ chính là hoàn toàn phơi bày ra hết, một chút che giấu cũng không có).
Thứ năm, Phật dạy chúng ta “đoạn tương tục tâm”, chính là đoạn cái tâm liên tục tạo tác tội nghiệp này. Chúng ta sáu căn tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài, thuận với ý của chính mình thì lòng tham liền khởi lên, phiền não liền khởi lên, không thuận với ý của mình thì tâm sân hận liền khởi lên. Tâm này khởi lên không nên sợ, thực tế mà nói khởi lên là bình thường, bởi vì chúng ta là phàm phu. Nếu như sáu căn của bạn tiếp xúc cảnh giới mà bạn không khởi tâm không động niệm thì bạn đã là Phật, là Bồ Tát, bạn không phải phàm phu. Người phàm phu ở ngay trong cảnh duyên này nhất định khởi tâm động niệm, cho nên người xưa nói “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Phàm phu khởi tâm động niệm là hiện tượng tất nhiên, thế nhưng then chốt là ở chỗ nào vậy? Then chốt là không nên để cho nó liên tục, ý niệm này vừa khởi lên, lập tức đè ý niệm này xuống, làm cho nó chuyển biến, đó gọi là tu hành, đó gọi là công phu. Người niệm Phật chúng ta chỉ dùng một câu A Di Đà Phật. Ở trong thuận cảnh lòng tham khởi lên thì niệm “A Di Đà Phật”, làm cho tâm này lập tức thay đổi, quyết không để lòng tham thêm lớn, quyết không để lòng tham tiếp nối. Khi ở trong nghịch duyên, nghịch cảnh, tâm sân hận phiền não khởi lên thì lập tức dùng câu “A Di Đà Phật” đè nó xuống, nhất định không để sân hận đố kỵ tăng thêm, nhất định không để sân hận đố kỵ tiếp nối. Chúng ta niệm Phật như vậy gọi là biết niệm, niệm Phật như vậy gọi là công phu. Mỗi ngày bạn thấy mình không tệ, một ngày niệm hai vạn danh Phật hiệu, ba vạn danh Phật hiệu, niệm xong Phật hiệu vẫn cứ mắng người, vẫn cứ sân si, vẫn cứ khởi hỉ nộ ái lạc thì hết rồi, cái gì cũng hết, một ngày niệm mười vạn câu cũng không còn, người xưa thường nói “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Vì sao vậy? Phật hiệu của họ có niệm được nhiều hơn nhưng không thể khởi tác dụng, vì họ không hàng phục được phiền não, không đè phiền não xuống được. Công phu chân thật có lực thì mỗi ngày Phật hiệu không nhất định phải niệm nhiều đến như vậy, mà then chốt nhất là gì? Bạn phải có thể phục được phiền não, đè phiền não xuống, đây gọi là công phu. Một ngày bạn không niệm Phật thì không hề gì, vừa động niệm thì A Di Đà Phật là được rồi. Khi không động niệm thì không có A Di Đà Phật, vừa khởi tâm động niệm thì lập tức niệm A Di Đà Phật, đó gọi là giác được nhanh, là chân thật giác ngộ. Vĩnh viễn giữ gìn tâm địa của chính mình thanh tịnh-bình đẳng-giác, vậy thì đúng.
Thứ sáu, Phật khuyên chúng ta phải “phát tâm Bồ Đề”. Bạn thấy phía trước đã nói với bạn năm điều là minh tín nhân quả, tự hối khắc trách, bố uý ác đạo, bất phú hà tì, đoạn tương tục tâm. Đó là từ nơi sự mà sám trừ tội nghiệp của chúng ta. Sám trừ tội nghiệp, phát tâm Bồ Đề thì thù thắng. Tâm Bồ Đề là tâm chân thật giác ngộ, đó là bạn chân thật tích công bồi đức. Sau khi sám trừ nghiệp chướng, tích công bồi đức, năm điều trước là dạy chúng ta đoạn ác, năm điều phía sau là dạy chúng ta tu thiện. Đoạn ác tu thiện, thiện không tu không được, vì không thể thành tựu phước huệ chân thật. Người học Phật nhất định có phước báo. Vì sao họ có phước báo? Tu phước, mỗi ngày họ đang tu phước, mỗi niệm đang tu phước, thì phước báo của họ đương nhiên thêm lớn. Mỗi niệm đang tu huệ, ngày ngày đang tu huệ, trí tuệ của họ nhất định thêm lớn. Đây là đạo lý tất nhiên.
Thế nào gọi là tâm Bồ Đề? Chúng ta cần phải nhận biết rõ ràng, tâm Bồ Đề là chân tâm. Ai có tâm Bồ Đề? Bồ Tát mới có tâm Bồ Đề. Ở trong nhà Phật chúng ta, A La Hán vẫn chưa phát tâm Bồ Đề; Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa phát tâm Bồ Đề. Nếu tâm Bồ Đề vừa phát thì rất tuyệt! Trên “Kinh Hoa Nghiêm” nói “Pháp Thân Đại Sĩ”. Phía trước đã nói qua với các vị, sáu cõi mười pháp giới là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà ra. Chấp trước không còn thì sáu cõi cũng không còn. Phân biệt không còn thì mười pháp giới cũng không còn. Mười pháp giới không còn thì bạn đến được pháp giới Nhất Chân, chính là Thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật, Thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật, bạn đi đến nơi đó liền siêu việt mười pháp giới. Tâm Bồ Đề vừa phát bạn liền siêu việt mười pháp giới, hay nói cách khác, tâm Bồ Đề chính là đem phân biệt, chấp trước thảy đều đoạn dứt, chân tâm của bạn hiện tiền. Thể của tâm Bồ Đề là tâm chí thành, chân thành đến tột đỉnh. Các vị phải nên biết, bạn còn có chút phân biệt, còn có chút nhỏ chấp trước thì tâm của bạn không thành. Phải đem phân biệt, chấp trước đoạn được sạch sẽ. Không những không phân biệt, không chấp trước đối với pháp thế gian, mà đối với Phật pháp cũng không phân biệt, không chấp trước. Nếu như bạn nói “tôi không phân biệt, không chấp trước đối với thế gian pháp, nhưng tôi còn phân biệt còn chấp trước đối với Phật pháp”, vậy thì không được, vẫn không thể ra khỏi sáu cõi. Việc này phải nên hiểu, tuyệt đối không bảo bạn đổi đối tượng. Lòng tham của tôi, hiện tại tôi không tham danh vọng lợi dưỡng của thế gian, không tham năm dục sáu trần, tôi tham Phật pháp có được không? Không được! Phật bảo bạn đoạn tâm tham, không phải bảo bạn đổi đối tượng. Tâm tham nhất định biến thành ngạ quỷ, bạn tham Phật pháp vẫn là biến thành ngạ quỷ, bạn tham năm dục sáu trần của thế gian thì đi làm ngạ quỷ, tham Phật pháp vẫn là biến thành ngạ quỷ. Tuy biến thành ngạ quỷ nhưng hưởng phước không giống nhau. Ham muốn danh vọng lợi dưỡng thế gian thì đọa vào đường ngạ quỷ, chân thật là ngạ quỷ, ngạ quỷ rất nghèo khổ. Bạn ham muốn Phật pháp có thể làm quan ở đường ngạ quỷ, bởi vì đối tượng đó không giống nhau, thế nhưng vẫn phải làm ngạ quỷ, vẫn không cách gì thoát khỏi cõi quỷ, việc này các vị nhất định phải hiểu. Phật dạy chúng ta phải đoạn tâm tham, không phải dạy chúng ta đổi đối tượng. Ý nghĩa này nhất định phải làm cho rõ ràng, không phải là đổi đối tượng. Nhất định phải đoạn tham-sân-si, nhất định phải đoạn phân biệt chấp trước. Thế xuất thế pháp thảy đều không phân biệt, không chấp trước thì bạn mới có thể siêu việt mười pháp giới. Đó là thể của tâm Bồ Đề, tâm chí thành, chân thành đến tột đỉnh. Phật dạy chúng ta phát tâm Bồ Đề cũng chính là nói chúng ta từ nay về sau đối nhân xử thế tiếp vật chỉ một mực chân thành, nhất định không có chút gì hư dối, lợi ích cho chính mình. Người khác dùng tâm hư vọng đối với ta, người khác lừa dối ta, ta dùng chân thành đối với họ. Có lẽ bạn sẽ nói, như vậy chẳng phải chúng ta bị thiệt thòi lớn hay sao? Không sai! Trước mắt chịu thiệt một chút, tương lai không hề bị thiệt chút nào. Họ dùng tâm hư vọng đối với ta thì họ đến ba đường ác, ta dùng tâm chân thành đối với họ thì ta đến Thế giới Cực Lạc, vậy thì làm sao như nhau được? Ta và họ đi hai con đường, không phải một con đường. Cho nên, chúng ta phải chịu thiệt thòi, phải chịu thua thiệt; không sợ thiệt thòi, không sợ thua thiệt thì chúng ta mới có thể tham gia câu lạc bộ của A Di Đà Phật. Nếu như bạn không chịu thiệt thòi, thua thiệt, vẫn muốn tranh hơn như họ thì xong rồi, họ phải đến ba đường ác, bạn cũng đi theo, vậy thì sai rồi, đặc biệt sai lầm! Người thông minh làm sao có thể làm việc như vậy? Nhất định phải dùng tâm chân thành đối nhân xử thế tiếp vật. Chúng ta là chân thật tu pháp môn Tịnh Độ, chân thật là muốn thân cận A Di Đà Phật, thân cận mười phương tất cả chư Phật Như Lai. Mỗi niệm của chúng ta là hy vọng gia nhập pháp hội của các Ngài. Sự chọn lựa của chúng ta là tối thượng thừa, trong mười pháp giới là thừa cao nhất. Chúng ta sâu sắc tin tưởng chính mình quyết định làm đến được. Tương lai ở nơi đây sẽ giảng “Kinh Hoa Nghiêm”. Sau khi nghe xong “Kinh Hoa Nghiêm”, tín tâm của các vị nhất định sẽ được xây dựng, biết được ngay trong một đời này nhất định có thể tham gia câu lạc bộ của A Di Đà Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật và tất cả chư Phật, một chút cũng không giả.
Tâm Bồ Đề khởi tác dụng, Phật ở trên kinh nói với chúng ta có tự thọ dụng, có tha thọ dụng, cho nên khi giảng khởi dụng liền giảng hai loại là tự thọ dụng và tha thọ dụng.
Tự thọ dụng là tâm thanh tịnh, hiếu đức hiếu thiện. Như hôm nay chúng ta giảng sám trừ nghiệp chướng, đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, đó chính là thâm tâm, chính là tự thọ dụng. Sau khi tâm Bồ Đề phát rồi thì trong tự nhiên sẽ là như vậy, một chút miễn cưỡng cũng không có, cũng không cần phải người khác đốc thúc, mà tự động tự phát, họ thật làm.
Tha thọ dụng của tâm Bồ Đề chính là đối nhân xử thế tiếp vật với lòng đại từ đại bi. Từ bi này dùng lời hiện tại mà nói chính là đối với tất cả chúng sanh quan tâm chân thành, thương yêu chân thành, giúp đỡ nhiệt tâm, đó là tha thọ dụng.
Ý nghĩa của tâm Bồ Đề rất sâu, rất rộng. Khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, cổ thánh tiên hiền của chúng ta cũng đã phát ra tâm này, chẳng qua không gọi nó là tâm Bồ Đề, trên thực tế cùng với tâm Bồ Đề mà Phật nói không hề khác nhau. Vào thời xưa, Vua Hán Võ chế định chính sách giáo dục của quốc gia. Sau khi ông chế định chính sách này thì kéo dài mãi đến triều Mãn Thanh, hơn hai ngàn năm. Mỗi một triều đại đều tuân thủ, đều không hề cải biến nó, có thể thấy được tông chỉ phương châm của chính sách giáo dục này là chính xác, cho nên đế vương nhiều đời đều khẳng định tiếp nhận, đều hoan nghênh chấp hành. Đó chính là thực hành tư tưởng giáo dục của Khổng Mạnh, ngày nay chúng ta gọi là nhà Nho.
Nhà Nho dạy người ở trên cương lĩnh giảng Tam cương Bát mục. Trong phương pháp giáo học cũng nói đến tâm Bồ Đề, nhưng không có danh từ này, mà có “thành ý, chánh tâm”. “Thành ý” chẳng phải là tâm chân thành hay sao? “Chánh tâm” chính là thâm tâm, đại bi tâm mà trong Phật pháp chúng ta đã nói. Hai thứ này hợp lại, họ dùng một chữ “Chánh”, chánh tâm! Phật pháp chúng ta giảng tỉ mỉ, bạn dùng tâm gì đối với chính mình, dùng tâm gì đối với người khác. Nhà Nho giảng nói tác dụng của thành ý này, họ chỉ nói chánh tâm, dùng chánh tâm đối với chính mình, dùng chánh tâm đối với người khác; chỉ có Phật giảng mới tường tận, thế nhưng thành ý này là chân thành.
Chúng ta cũng rất muốn dùng tâm chân thành, thế nhưng vẫn là không phải. Bồ Tát Mã Minh có một trước tác gọi là “Đại Thừa Khởi Tín Luận”. Khởi tín là vào cửa, là bước đầu, không phải rất sâu, cũng giống như trường học vậy, bạn vừa vào lớp một, vừa mới đi học. Điều kiện khởi tín chính là phát tâm Bồ Đề. Cho nên, tâm Bồ Đề vừa phát thì bạn chính là Bồ Tát Đại thừa khởi tín, ở trong Kinh Đại thừa gọi là phát tâm trụ Bồ Tát. Đây là Bồ Tát vị thứ nào? Là vừa phát tâm. Khi bạn vừa phát tâm chính là địa vị Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Công đức của Bồ Tát Sơ Trụ tất cả chư Phật đều tán thán không cùng. Tương lai các vị sẽ xem thấy ở trong “Kinh Hoa Nghiêm”,đoạn kinh văn “Thập Trụ”, tổng cộng có sáu phẩm Kinh, bên trong đặc biệt có một phẩm là “Sơ Phát Tâm Công Đức Phẩm”, đều là tán thán công đức của Bồ Tát Sơ Trụ.
Tâm Bồ Đề của chúng ta vì sao không thể phát khởi? Chúng ta rất muốn phát nhưng không cách nào phát được. Phật biết được, những bậc thánh hiền vào thời xưa cũng biết được, cho nên nói với chúng ta, bạn muốn phát tâm thì bạn cần phải đem chướng ngại trong tâm bỏ đi, như vậy chân tâm của bạn mới có thể phát ra được. Trong tâm chân thành có những chướng ngại nào? Có phiền não chướng, có sở tri chướng, hai loại chướng ngại này thật là phiền não lớn. Chỉ cần có hai loại chướng ngại này thì tâm chí thành của bạn, chân tâm của bạn sẽ không cách gì hiển lộ. Cho nên, Thanh Văn, A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát chưa đoạn hai loại chướng này, tâm Bồ Đề không thể hiện tiền, vẫn cứ dùng là vọng tâm, không phải chân tâm.
Nhà Nho dạy người như thế nào vậy? Bạn xem, phía trước “thành ý, chánh tâm” có hai câu là “cách vật, trí tri”, sau đó mới “thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Có thể thấy được hai câu “cách vật, trí tri” ở phía trước là quan trọng. Cái gì gọi là “cách vật”? Sau này, như nhà Nho của Tống Minh đem hai chữ “cách vật” này giải thích là cái lý tột cùng của các vật, nghiên cứu đạo lý của tất cả vật, đó là trên căn bản, trên phương hướng đã sai lầm. Cho nên, người đời sau của Phu Tử là Chư Tử đi nghiên cứu lý, đại khái đầu óc đều hỗn loạn mà lý cũng chưa nghiên cứu ra được, vẫn là Tư Mã Quang thông minh hơn. Tư Mã Quang là tín đồ Phật giáo thuần thành. Ông nói rất có đạo lý. Ông nói, “cách vật”, vật chính là vật dục. Giải thích của ông không giống như giải thích của người trước. “Vật” là vật dục, chính là thị phi nhân ngã, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần. Cách giải thích này của ông cùng giải thích của Phật pháp là như nhau. “Cách” là gì vậy? “Cách” là cách đấu, cũng chính là nói chúng ta chính mình phải đấu tranh với năm dục sáu trần, chúng ta phải chiến thắng nó, không nên để nó chiến thắng chúng ta. Bạn phải khắc phục năm dục sáu trần, chính là nhà Phật nói đoạn phiền não. Cách đoạn phiền não thế nào vậy? Nhà Nho gọi là “khắc chế”, đó chính là phương pháp đoạn phiền não. Cách này tốt, bạn có thể khắc phục năm dục sáu trần. Cho nên, Phật dạy cho đệ tử đời sau “lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Thầy chính là ý nghĩa của sự mô phạm, làm gương. Phật tuy không đề xướng tu khổ hạnh, thế nhưng Phật lại tán thành tu khổ hạnh, vì sao vậy? Con người có thể trải qua đời sống thanh đạm thì ý niệm của vật dục này sẽ rất tan nhạt, hay nói cách khác, rất dễ đoạn phiền não. Nếu như bạn ở trong đời sống ham thích hưởng thụ thì bạn không có năng lực hàng phục năm dục sáu trần, phiền não của bạn rất khó đoạn. Phiền não của bạn chưa dứt thì tâm Bồ Đề không thể sanh khởi. Điểm này các vị đồng tu phải đặc biệt chú ý, vì sao vậy? Bởi vì điều kiện vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, trên Kinh Vô Lượng Thọ nói là “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật”. Nếu tôi không đem sự việc này giảng rõ ràng, giảng tường tận cho mọi người nghe, tương lai bạn không thể vãng sanh, bạn sẽ không trách tôi:“Lời nói quan trọng này vì sao ông không nói với tôi?”. Hiện tại tôi nói với các vị rồi, các vị không chịu đi làm thì không phải trách nhiệm của tôi. Nếu bạn đến hỏi tôi thì tôi đã nói với bạn từ sớm rồi, bạn không tin tưởng thì không còn cách nào. Cho nên phát tâm Bồ Đề vô cùng quan trọng, nhất định phải dùng tâm chân thành đối đãi người, thì chân tâm của bạn liền hiện tiền. Bạn nhất định phải khắc phục dục niệm của bạn. Nhất định không bị năm dục sáu trần (hiện tại gọi là thế giới muôn màu) dụ hoặc, bạn chính mình có thể khắc phục được mình, đó chính là công phu “cách vật”. Cho nên “cách vật” là phá phiền não chướng, “trí tri” là phá sở tri chướng. Chúng ta phải cầu học vấn chân thật, trí tuệ chân thật. Học vấn và trí tuệ chân thật đều ở trên Kinh Đại thừa, ở bộ Kinh nào vậy? Kinh Vô Lượng Thọ là tốt nhất. Thế nhưng “Kinh Hoa Nghiêm” thì nói được càng rõ ràng, càng thấu triệt hơn. Tương lai, hai bộ Kinh này đều được giảng ở đạo tràng này của chúng ta. Hiện tại chúng ta đang làm công tác trù bị, trước tiên in quyển Kinh. Quyển Kinh chúng ta biên tập mới lại để mọi người xem. Câu đoạn, thứ lớp, chương pháp, kết cấu, nghĩa lý trong Kinh điển này rõ ràng, tường tận, khi bạn vừa xem liền có thể hiểu ngay, khi học thì sẽ dễ dàng. Hiện tại quyển “Kinh Hoa Nghiêm” là bổn xưa, được in bằng bản gỗ, một mặt mười hàng, một hàng hai mươi chữ, không có thứ lớp, cũng không có chấm phẩy, xem thế nào cũng không thể hiểu, khi xem thì trong lòng không thoải mái, cho nên không thể không đem Kinh này phân câu, đoạn, biên tập mới lại. Công tác này, phần thứ nhất chúng ta đã làm. Cho nên chúng ta dự định ngày 18 tháng này bắt đầu giảng. Từ ngày 18, tôi ở nơi đây một tuần lễ giảng năm ngày, bốn ngày giảng “Hoa Nghiêm”, một ngày giảng “Kinh Vô Lượng Thọ”. “Kinh Vô Lượng Thọ” ngắn, Kinh ngắn thì chúng ta giảng dài. “Kinh Hoa Nghiêm” rất dài, Kinh dài thì chúng ta giảng ngắn, như vậy rất tự tại, không bị hạn chế thời gian. Chúng ta dự định giảng ba năm, hy vọng trong ba năm có thể hoàn thành tốt công trình này. Vì vậy, phương pháp trong hai bộ kinh này là “`trí tri” tốt nhất, học tập có hiệu quả nhất. “Cách vật” nhất định phải ở ngay trong cuộc sống chính mình.
Trong cuộc sống chúng ta nhất định phải tiết kiệm, không nên lãng phí. Chính mình có phước báo thì cũng phải tiết phước. Phước báo dư ra phân cho chúng sanh cùng hưởng, thì phước báo của bạn càng ngày càng lớn, phước báo của bạn vĩnh viễn hưởng không hết. Chính mình có phước, không nên chỉ một mình hưởng hết, đó là sai lầm. Cho dù chính mình có rất nhiều phước báo, chúng ta chỉ hưởng thụ chút thôi, tất cả còn lại thảy đều chia cho chúng sanh cùng hưởng. Bạn có thể bố thí phước càng nhiều thì phước của bạn càng lớn. Phía trước đã nói với các vị, các vị bố thí tài thì được tiền tài, bố thí pháp được thông minh, bố thí vô uý được khỏe mạnh sống lâu. Bạn bố thí phước báo thì bạn đương nhiên được phước báo lớn, đây là đạo lý nhất định. Cho nên chúng ta phải bố thí phước báo lớn, đời sống tạm đủ thì được rồi. Tích thiện, tích phước là quan trọng, mỗi niệm vì chúng sanh, mỗi niệm vì xã hội. Chúng sanh đều có phước thì xã hội này tốt, đời sống của chúng ta đương nhiên cũng sẽ tốt. Chúng ta không hề rời khỏi xã hội, không hề rời khỏi chúng sanh. Không nên mỗi niệm chỉ nghĩ cho chính mình. Mỗi niệm chỉ nghĩ cho chính mình thì tâm Bồ Đề không còn. Mỗi niệm vì chúng sanh, mỗi niệm vì xã hội thì tâm Bồ Đề liền hiện tiền. Cho nên nhất định phải phát tâm Bồ Đề. Chúng ta sẽ không nói nhiều về tâm Bồ Đề ở đây, tương lai giảng đến trên Kinh còn phải nói tỉ mỉ.
Thứ bảy, Phật dạy chúng ta phải “tu công, bổ quá”. Trong đời quá khứ hoặc ngay trong một đời này, những việc chúng ta đã làm sai rất nhiều, đều là có lỗi lầm, cho nên Phật khuyên bảo chúng ta phải nỗ lực tu thiện, bồi đắp lỗi lầm của chúng ta. Người thế gian thường hay nói, chúng ta tạo tác tội nghiệp, bây giờ lập công, lấy công chuộc tội. Trên pháp luật thế gian có rất nhiều người làm như vậy, nhưng trong Phật pháp thì không được vậy. Trong Phật pháp thì thiện quyết định có quả thiện, ác quyết định có ác báo, nhất định không thể nói “tôi ngày trước đã tạo ra rất nhiều tội ác, hiện tại tôi tu đại thiện, vậy tội của tôi có thể không cần trả báo”, không hề có việc như vậy. Đó là không phù hợp với định luật nhân quả. Thế nhưng nếu như bạn ngay đời này nỗ lực tu thiện, sức mạnh của thiện đặc biệt mạnh thì quả thiện của bạn sẽ được hưởng trước, còn tội nghiệp mà bạn tạo, ác báo sẽ chậm lại, sẽ lùi lại, báo sau. Nếu như lực lượng ác mạnh thì cái ác sẽ báo trước, cái thiện mà bạn làm sẽ báo sau, không hề không báo. Đó là định luật của nhân quả, chân lý của nhân quả. Chúng ta hiểu rõ được đạo lý này thì chúng ta không thể không khiếp sợ đối với nhân quả. Chân thật là sợ nhân quả, vì sao vậy? Quả báo không hề sót lọt, chỉ là báo sớm hay báo trễ mà thôi, không hề không báo. Khởi một ác niệm đều phải nhận lấy báo ác, khởi một niệm thiện cũng có quả thiện. Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm ba nghiệp đều đang tạo. Tu công bù lỗi, Phật khuyên bảo chúng ta việc này không phải nói đem công bù tội, mà là hy vọng quả thiện của chúng ta báo trước, quả ác sẽ được chậm lại, làm cho nó lùi lại sau. Giả như thiện căn của chúng ta rất lớn, chúng ta sanh đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, việc này quá tốt, đến nơi đó để làm Phật. Sau khi làm Phật rồi, chúng ta muốn hỏi những tội nghiệp đã tạo trong đời quá khứ còn phải trả báo hay không? Nếu như bạn nói làm Phật rồi, làm Bồ Tát rồi thì không trả báo nữa thì định luật nhân quả sẽ nói không thông. Xin nói với các vị, làm Phật làm Bồ Tát đến sau cùng vẫn phải trả báo, thế nhưng quả báo đó ở trên cảm thọ hoàn toàn không giống như chúng ta. Hiện tại khi chúng ta trả báo chân thật là cảm thấy vô cùng thống khổ. Khi Phật Bồ Tát thọ báo thì rõ ràng, tường tận, “ồ! Nó đến rồi, đời quá khứ là do tạo ra cái nhân đó, cho nên hiện tại phải chịu quả báo này, đây là trả nợ”, cho nên trả được rất hoan hỉ, rất tự tại, từng món trong sổ đều xóa hết, đều tiêu hết, vậy an lạc dường nào. Đời trước chúng ta gạt người ta rất nhiều tiền, chúng ta tạo ra cái nghiệp này, đời này gặp được người ta gạt tiền của chúng ta mang đi hết, chúng ta rất khổ sở. Nếu như chúng ta biết được đời trước ta đã gạt họ, hiện tại họ gạt ta, vừa lúc phải trả, một chút áo não cũng không có. Bị gạt mà còn thấy rất thoải mái, còn rất an vui, làm sao có thể giống nhau được? Cho nên Phật Bồ Tát khi đến đây chịu quả báo thì an vui tự tại. Bạn thấy An Thế Cao thật cũng đã làm Phật, làm Bồ Tát rồi, nhưng ông vẫn phải đến Trung Quốc để chịu báo, để trả hai lần thiếu nợ mạng. Đời trước ông đã giết lầm một người, đời này đến ngay nơi đó cũng bị người ta giết nhầm lại. Giết nhầm mà vẫn còn có tội. Ông đã đoán trước, nên nói với bạn của ông: “Hôm nay tôi sẽ gặp nạn này, sẽ gặp phải sự việc này, sẽ bị chết đi. Anh nói với quan phủ là không nên trị tội người này, đây là do nghiệp lực đời trước của tôi như thế nào đó, đời này phải gánh lấy quả báo này, tôi đến đây là để trả nợ mạng”. Không thể nói thành Phật, thành Bồ Tát thì không chịu báo, làm gì có đạo lý này. Thế nhưng cũng có trường hợp không chịu báo, đó là đối phương hai bên đều rất tường tận, “ta thiếu anh ấy một mạng, anh ấy biết rõ, anh ấy nói tôi không cần anh trả mạng”, vậy thì được, vậy thì không việc gì. Vị Bồ Tát này đến nơi đây giảng kinh nói pháp, gặp oan gia trái chủ, nhưng những oan gia trái chủ này nghe được Phật pháp thấu hiểu rồi, “thôi vậy, món nợ về trước chúng ta bỏ qua vậy, không nên trả, không cần nữa”, vậy thì không việc gì. Cho nên, quả báo nhất định là chân thật. Báo và không báo đều ở nơi duyên, phải xem thời tiết nhân duyên đó của bạn. Duyên có lúc có thể thao túng ở chính nơi tay chúng ta, chính mình có thể làm chủ. Phật dạy cho chúng ta “tu công bổ quá”, ý nghĩa chính ngay chỗ này.
Thứ tám, phía sau dạy chúng ta “thủ hộ chánh pháp”. Công đức này là vô cùng to lớn, công đức đệ nhất trong thế xuất thế gian pháp. Chánh pháp phải gìn giữ như thế nào vậy? Các vị nhất định phải nên biết y giáo tu hành, ở trong “quảng tu cúng dường” phía trước đã nói qua với mọi người về “như giáo tu hành cúng dường”. Kinh giáo của Phật, Kinh điển của Phật, những đạo lý đã nói trong đó chúng ta phải tường tận, phải thấu triệt. Phật dạy cho chúng ta phương pháp đời sống, phương pháp đối nhân xử thế, phương pháp tu học, chúng ta nhất định phải tuân thủ. Phương pháp trong Kinh điển đã dạy không phải phương pháp gì khác, mà chính là phương pháp dạy cho chúng ta làm người, phương pháp sinh hoạt, rất là mật thiết, thậm chí dạy cho chúng ta phương pháp làm việc, phương pháp qua lại với mọi người, cả thảy đều có, không có thứ nào không có. Chúng ta phải nỗ lực học tập. Những gì Phật dạy chúng ta làm, chúng ta nhất định phải làm cho được; những gì Phật dạy chúng ta không nên làm, chúng ta nhất định tuân thủ, quyết định không làm. Đó là trước tiên hộ trì chính mình, sau đó lại giúp đỡ chánh pháp cửu trụ thế gian. Giúp đỡ chánh pháp cửu trụ thế gian thì nhất định giống như Cư Sĩ Lâm nơi đây xây đạo tràng, mời pháp sư đến giảng kinh nói pháp, vậy chánh pháp mới có thể cửu trụ. Những năm gần đây, Lý Mộc Nguyên khai ngộ rồi, nếu ông không khai ngộ thì ông không làm việc này. Ông chân thật khai ngộ, ông mới đem lầu bốn lầu năm tu sửa mới lại, để mọi người đến đây nghe kinh, ngồi nơi đây thoải mái dễ chịu, đến nơi đây ngồi hai giờ đồng hồ không phải đến chịu tội, mà là đến hưởng thụ. Trong hai giờ đồng hồ này thân tâm thư thái. Công trình đó vẫn chưa hoàn công, sau khi hoàn công so với hiện tại trong này còn có một số phù điêu, có bức vẽ thiên đường tán hoa. Bản vẽ đó tôi đã xem qua, ông làm ở Trung Quốc. Tương lai giảng đường này sẽ rất mỹ quan, nhất định làm cho mọi người vào đây rất thoải mái. Đó đều là hộ trì chánh pháp.
Trong hộ trì chánh pháp, then chốt nhất chính là bồi dưỡng nhân tài tiếp nối. Thời đại này của chúng ta đã già rồi, tương lai không giảng nổi nữa, nếu không có người giảng thì Phật pháp chẳng phải bị đoạn tuyệt rồi sao? Hiện tại các vị thấy có không ít pháp sư trẻ tuổi đến từ Trung Quốc tiếp nối huệ mạng của Phật. Tương lai chúng ta xuống giảng đài rồi thì họ lên tiếp nối. Những thanh niên này đang học giảng kinh, đương nhiên nhất định sẽ giảng có rất nhiều chỗ không được vừa ý mọi người, vì họ là sơ học, kinh điển lý luận đạo lý đều chưa thuộc, thế nhưng họ cần phải có người hộ trì. Làm thế nào hộ trì? Bạn đến nghe giảng chính là hộ trì. Nếu bạn không đến nghe họ học giảng kinh, khi họ nhìn xuống thấy chỉ có mấy người thì họ sẽ nghĩ “ta không phải là người khéo giảng, ta không thể giảng kinh”, tâm của họ liền bị thoái chuyển. Nếu họ nhìn xuống thấy có rất nhiều người, “ồ! Đại khái ta giảng không tệ, ta vẫn có thể giảng”, làm cho chí khí của họ được nâng cao. Cho nên, ở khóa trước tôi đã nói với các vị rồi, họ là cây Bồ Đề, các vị đến nghe Kinh chính là đến để tưới nước, đến vun bồi cho họ, khiến cho họ dần dần trở thành một cây đại thọ. Cho nên, các vị đến nghe họ giảng Kinh thì công đức sẽ rất lớn, đó là các vị hộ trì chánh pháp, còn nghe tôi giảng kinh thì công đức không lớn như vậy. Hiện tại, thứ sáu và thứ bảy thì tôi giảng, thời gian còn lại đều là những học trò này đang luyện tập giảng kinh. Hoan nghênh mọi người đến hộ trì chánh pháp, đến khích lệ họ. Đồng thời khi các vị nghe Kinh, nếu như cảm thấy họ giảng có vấn đề, nghe không rõ ràng, hoặc là có chỗ nghi hoặc, hoặc là phát hiện họ có chỗ sai lầm, các vị có thể viết một tờ giấy cho họ, để cho họ không ngừng cầu cải tiến, đây là chân thật giúp đỡ họ.
Ngày trước lão sư đã dạy cho tôi, khi mới học giảng kinh, ta ở trên đài giảng là học trò, bên dưới nghe kinh đều là thầy giáo của ta, đều là giám học của ta, ta ở nơi đây đưa ra báo cáo với mọi người tu học của ta, mời mọi người chân thật chỉ giáo để cải tiến. Chúng ta chân thật tiếp nhận, chân thật y giáo phụng hành thì chính mình mới có tiến bộ. Cho nên học giảng kinh nhất định phải tiếp nhận phê bình chỉ giáo của đại chúng. Đại chúng không phê bình chỉ giáo thì là không quan tâm đối với bạn. Chân thật ái hộ bạn thì nhất định giúp đỡ bạn, nhất định phải có phê bình với bạn. Chúng ta chính mình nhất định phải tiếp nhận, nhất định phải nỗ lực cải tiến. Nếu như phê bình với bạn mà bạn không thể cải tiến thì lần sau họ không nói nữa. Vì sao vậy? Nói cũng không ích gì, bạn không chịu sửa, còn nhắc nữa làm gì, vậy là buông bỏ bạn. Bạn cố gắng học tập, mỗi một người nhắc nhở bạn, bạn đều nỗ lực đi làm mới, người đưa ra ý kiến rất hoan hỉ, “ta dạy ông ấy, hôm nay ông ấy đã sửa rồi”, họ sẽ rất hoan hỉ, họ sẽ cố gắng giúp đỡ bạn. Cho nên, chúng ta phải học thái độ tốt đẹp.
Chúng ta là thính chúng, đến giúp đỡ họ, chúng ta cũng nỗ lực gánh trách nhiệm này để giúp đỡ họ, khiến cho số pháp sư trẻ này có thể thành tựu, tương lai có thể tiếp tục huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh. Đó chân thật là hộ trì chánh pháp.
Các vị cần phải biết, hộ pháp còn quan trọng hơn so với hoằng pháp. Thực tế mà nói, thế gian này không phải không có người hoằng pháp, nhân tài hoằng pháp rất nhiều, nhưng nếu không gặp được thiện hộ nhiệt tâm thì nhân tài hoằng pháp cũng sẽ bị dìm mất, ngay trong một đời của họ chỉ có thể tự lợi mà không thể lợi tha. Những sự thật đạo lý này trước đây chúng ta cũng đã từng nói qua mấy lần. Trong giảng đường chúng ta mỗi lần giảng đều có không ít đồng tu mới đến. Đồng tu cũ tuy là đã nghe qua, thế nhưng e là thời gian lâu rồi nên rất có thể đã quên rồi, đồng tu mới thì chưa nghe qua, cho nên nói nhiều một chút cũng không ngại gì, cũng có chỗ hay. Người hoằng pháp này cũng giống như là một giáo viên rất giỏi ở thế gian, họ có học vấn, có đức hạnh, có phương pháp giáo học rất tốt, nhưng nếu như không có người muốn theo học với họ thì cũng là vô ích, họ cũng không thể phát huy được tác dụng. Nếu như muốn có người theo họ học, đương nhiên trước tiên phải có người thành lập một học đường. Trung Quốc vào thời xưa, thành lập học đường phần nhiều là tư thục, mời một thầy giáo, có khoảng mười mấy đến hai-ba mươi học trò, vị thầy giáo này mới có thể phát huy sở trường của ông ấy. Nếu như không có người thành lập học đường thì ông ấy không cách gì phát huy được đức năng của ông ấy. Vào thời hiện đại, một vị thầy giáo giỏi nếu như không có một trường học tốt; người phụ trách của trường học này là hiệu trưởng, hiệu trưởng không quen biết đối với thầy giáo này, không mời thỉnh ông ấy thì ông ấy cũng không có cơ hội giáo học, cho nên nhất định phải có người quen biết ông ấy, phải có người mời thỉnh ông ấy, trọng dụng ông ấy, thì ông ấy mới có thể phát huy sở trường đặc biệt của mình, mới có thể chân thật giáo huấn một phương. Giáo hóa một phương, công đức chân thật có phải là của ông ấy không? Không thể xem là của ông ấy, đó là của người hộ pháp.
Bạn xem thấy ngày nay mở lớp dạy học, làm giáo dục có được thành tựu rất tốt, thì quốc gia xã hội sẽ khen thưởng, ban tặng cho hiệu trưởng. Nếu như trường học do tư nhân làm thì nhất định là khen tặng phần thưởng cho hội trưởng của họ. Người mở lớp học, công là của họ, nhưng nếu làm không được tốt thì lỗi cũng ở nơi họ. Đối với nơi này họ phải gánh lấy trách nhiệm giáo dục. Họ có thể làm được tốt, họ có huệ nhãn, có thể mời được giáo viên tốt nhất để giúp cho họ chấp hành giáo học, cho nên họ là người chủ đạo chánh sách giáo học, họ xếp đặt giáo trình. Giáo viên chẳng qua là đến để chấp hành, giúp họ, thay họ lên lớp mà thôi. Cho nên, công đức là ở nơi người mở lớp (ngày nay chúng ta gọi là hộ pháp).
Các vị phải nên biết, hoằng pháp và hộ pháp là một thể, thế nhưng hộ pháp vẫn là quan trọng hơn so với hoằng pháp. Nếu như không có người hộ trì, thì Phật Bồ Tát ra đời cũng không thể lợi ích chúng sanh. Trách nhiệm của hộ pháp rất nặng, công đức của hộ pháp rất lớn. Thích Ca Mâu Ni Phật đem công việc hộ pháp này ủy thác cho ai? Chúng ta xem thấy được ở trên Kinh, Phật đem công việc của hộ pháp ủy thác cho quốc vương, đại thần, đại phú, trưởng giả. Họ có năng lực hộ pháp, có oai thế, có tiền của, họ có thể xây dựng đạo tràng, họ có thể bố trí an ổn cho những vị pháp sư này, bồi dưỡng pháp sư, khải thỉnh pháp sư ở nơi này hoằng pháp lợi sanh. Họ chuyên mở trường học, làm Đổng sự trưởng, mời thỉnh pháp sư đến trụ trì đạo tràng này. Trụ trì trong đạo tràng giống như Đổng sự trưởng trong một công ty, pháp sư giảng kinh trong đó là người phụ việc, mỗi người một công việc. Ông chủ là Đổng sự trưởng, là hộ pháp. Không có sự hộ trì của họ, người xuất gia làm gì có tiền của, làm gì có đủ lực? Đừng nói xây một đạo tràng là khó khăn, che một chồi tranh cũng không phải dễ, làm sao phát huy được sở trường của họ? Cho nên, chúng ta ở nơi đây giảng kinh nói pháp, công lao là của Cư Sĩ Lâm. Ông chủ là Đổng sự trưởng của Cư Sĩ Lâm. Công đức hoằng pháp lợi sanh là của họ, vì do họ làm. Nếu họ không mời chúng ta đến giảng kinh thì chúng ta không cách gì đến được nơi đây. Nếu họ không mở lớp bồi dưỡng pháp sư trẻ thì không có người nào có thể đến đây được. Cho nên, ngày nay chúng ta giảng kinh ở nơi đây có rất nhiều đồng tu được lợi ích. Hiện tại nhờ vào thiết bị khoa học, không những thính chúng hiện tiền được lợi ích, mà các đồng tu ở trước truyền hình cũng được lợi ích.
Hôm qua thầy Ngộ Đạo gọi điện thoại cho tôi (hiện tại thầy đang ở Canada), thầy nói với tôi: “Tiền đồ của Tịnh Tông Hoa Kỳ cùng Canada là một mảng sáng lạn. Hiện tại số lượng người đọc Kinh Vô Lượng Thọ và niệm Phật nhiều vô kể. Ngoài ra còn có một số người nước ngoài đọc Kinh Vô Lượng Thọ rất tốt”. Tôi liền hỏi thầy ấy: “Họ không hiểu được ý nghĩa, làm sao có thể đọc được tốt đến như vậy?”. Thầy nói: “Cuốn “Kinh Vô Lượng Thọ” của Singapore có phiên âm La-tinh, người nước ngoài căn cứ vào phiên âm đó đọc ra tiếng Trung Quốc không hề sai, thế nhưng giảng nói điều gì thì họ không hề biết”. Tôi nói: “Rất tốt, rất khó được!”. Có rất nhiều người nước ngoài cũng đang đọc “Kinh Vô Lượng Thọ”. Quyển kinh này chúng ta có thể hiến tặng cho họ, nơi nào cần đến thì chúng ta đều có thể tặng cho. Người nước ngoài dùng phiên âm La-tinh đích thực rất thuận tiện, như Đài loan dùng chú âm phù hiệu thì họ không cách gì đọc được, nếu họ có được thì cũng không thể dùng. Quyển chú âm của Singapore thì rất dễ dùng. Tịnh tông có thể mở rộng đến như vậy, tốc độ nhanh như vậy là nhờ vào sức mạnh của truyền hình. Mỗi ngày chúng ta đều ở trên đài truyền hình phát sóng một giờ đồng hồ, người ở trên toàn nước Mỹ và Canada nhận được từ truyền hình. Cho nên ngày nay chúng ta đến đây giảng kinh, thính chúng không thể hạn lượng, mắt thịt chúng ta nhìn thấy nhiều người đến như vậy, còn số người ngồi trước tivi ở các quốc gia khu vực khác chúng ta không nhìn thấy được thì không biết là nhiều đến bao nhiêu. Lợi ích vô biên! Công đức lợi ích này của ai vậy? Vẫn là của Hội trưởng Cư Sĩ Lâm, của những ông chủ này. Cho nên, công đức của hộ pháp không thể nghĩ bàn. Nếu như muốn Phật pháp hưng vượng, thì bốn chúng đệ tử chúng ta đều phải biết làm công việc hộ pháp.
Ngày trước khi tôi còn trẻ học Phật, học giảng kinh với Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, nếu như không gặp được Hàn Quán Trưởng toàn tâm toàn lực hộ trì trong 30 năm, thì chúng ta cũng không có thành tựu của ngày nay. Nếu không có được sự hộ trì của người này, tôi nghĩ tôi chỉ có hai con đường để đi. Một đường chính là đi làm kinh sám, sẽ bỏ đi việc giảng kinh, không có cơ hội để giảng cho bạn. Còn một con đường nữa, nếu không chịu đi làm kinh sám thì đành phải hoàn tục, lại vào trong xã hội để tìm công việc. Như vậy bạn mới biết được công đức hộ trì không thể nghĩ bàn. Hộ trì rất không đơn giản, cả nhà Hàn cư sĩ giúp đỡ tôi cũng gặp phải rất nhiều khổ nạn, thế nhưng bà hiểu được, bà sáng suốt, bà không bị quấy nhiễu của hoàn cảnh bên ngoài. Bạn ở trên bục giảng kinh, nếu giảng không hay thì người ta sẽ cười bạn, nhưng chướng ngại vẫn nhỏ; nếu như bạn giảng không tệ, thính chúng rất hoan hỉ, rất tán thán, thì người đố kỵ sẽ liền đến. Việc này là không thể tránh khỏi. Người đố kỵ liền sẽ nghĩ hết cách để phá hoại, đến khiêu khích, đến sanh sự, nhất là ngày trước khi tôi ở trong nhà của Hàn trưởng. Chúng ta là người xuất gia, bức đến không còn đường để đi, không có chùa nào có thể dung chứa, nên ở trong nhà cư sĩ hết 17 năm, không phải thời gian ngắn, người khiêu khích sanh sự là không thể tránh khỏi. Người trong nhà của họ phải có thể nhẫn chịu được. Nếu như không thể nhẫn chịu được, họ sẽ nói: “Pháp sư à, không được rồi! Ông ở nơi đây tôi không thể chịu nổi áp lực bên ngoài”, thì chúng ta đành phải ra đi. Người trong nhà họ sáng suốt, họ có thể chịu được bất cứ dèm pha nào, thậm chí bất cứ nhục mạ gì họ đều không hề để ý. Việc này là vô cùng khó làm, không dễ dàng. Cho nên, chúng tôi được thành tựu chân thật là rất cảm khích đối với bà ấy. Không có bà thì không có thành tựu của ngày nay, cũng không có Thư viện Hoa Tạng của Đài Bắc, cũng không có Tịnh Tông Học Hội, cho nên công đức hộ trì là không thể nghĩ bàn. Hộ trì phải có trí tuệ chân thật, có định lực chân thật (có trí tuệ thì có thể phân biệt phải quấy, có định lực thì không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu), có thể kiên trì thì sau cùng mới có thành tựu. Cho nên khi Quán Trưởng vãng sanh, bà hai lần nhìn thấy A Di Đà Phật đến an ủi bà, bà xem thấy Hải Hội Liên Trì. Điềm lạ đích thực là tương ứng với công đức của bà. Chúng ta rất là an ủi.
Ngày nay các vị xem thấy người xuất gia chúng tôi đắp chiếc y màu cà phê, không phải là y màu đỏ, áo tràng màu vàng như thông thường (ngày trước chúng ta đều đắp y như vậy). Khi Hàn Quán Trưởng bệnh nặng, có một hôm tôi bỗng nghĩ ra là màu sắc y của chúng ta là không như pháp. Phật nói cho chúng ta, màu sắc của y phục này chính là loại màu sắc hiện tại này (màu cà phê). Đây là y nhiễm sắc, gồm năm loại màu chính là đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, cho nên y phục của nhà Phật gọi là màu Ca Sa. Đây là y nhiễm sắc, không phải chánh sắc. Tôi nghĩ đến điểm này, thế là gọi điện thoại cho tiệm may tăng phục, mời họ may cho chúng ta loại y phục như pháp này. Buổi tối ông chủ của tiệm may tăng phục đến thư viện đo y phục cho chúng tôi. Chúng tôi liền nhờ ông ấy có thể may cho chúng tôi nhanh hơn một chút không. Ông liền nói với chúng tôi, buổi trưa A Di Đà Phật đến tiệm của ông dặn bảo ông là thư viện có việc gấp, bảo ông ấy phải mau làm cho xong. Ông nói: “Nguyên liệu may đồ tôi đã chuẩn bị xong hết”. Thật là không thể nghĩ bàn! Chúng ta khởi một niệm đúng pháp liền có thể cảm ứng, A Di Đà Phật thông báo cho tiệm may mau làm cho xong. Cho nên ngày nay chúng ta đắp chiếc y màu này, thật không dám đổi lại màu đỏ. A Di Đà Phật gia trì, đây là Phật khẳng định. Bất kể trường hợp nào, chúng ta không còn dám dùng màu vàng, màu đỏ tươi đẹp nữa. Cảm ứng không thể nghĩ bàn.
Làm hộ pháp phải hiểu được trong “Phẩm Hạnh Nguyện” đã nói, hiện tại chúng ta vẫn chưa giảng đến. Ngày nay Phật không còn ở đời, “thỉnh chuyển pháp luân” không cách gì thỉnh Phật, chỉ có thể thỉnh những vị cao tăng đại đức, không luận là tại gia hay xuất gia, chỉ cần họ có tu, có học đối với Phật pháp. Hiện tại chứng quả là việc quá khó, chúng ta không gặp được người chứng quả, cho nên chỉ cần họ chân thật có tu, có học thì chúng ta có thể mời họ đến giảng kinh. Thế nhưng mời họ đến giảng kinh cũng phải thông hiểu đại chúng của chúng ta đang tu pháp môn gì, chúng ta mời họ đến giảng kinh luận nhất định phải có sự trợ giúp đối với việc tu học của chúng ta thì mới đúng. Mọi người chúng ta đều là niệm Phật, đều là một mục tiêu cầu sanh Tịnh Độ, nếu như bạn mời một vị pháp sư đến giảng cho bạn nghe về tham thiền, mời một vị pháp sư đến dạy cho bạn trì chú thì sai rồi, phá hư đi pháp môn tu học của chúng ta. Việc này chính là ở người hộ pháp. Không những họ hộ chính mình, mà còn phải hộ pháp của Phật, còn phải hộ pháp của đại chúng. Vì đại chúng mời thầy giáo đến dạy học, nhất định phải mời thầy giáo có tương ưng với sự tu học của chúng ta thì chúng ta mới có thể được lợi ích.
Ngày trước, khi tôi còn ở Đài Trung, thân cận Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam mười năm, mười năm không hề rời khỏi thầy. Thầy đi đến nơi đâu thì chúng tôi đi theo đến đó. Chúng tôi là chúng thường tùy của thầy. Chúng thường tùy đại khái có khoảng hai-ba mươi người, chúng tôi nhất định là cùng đi theo. Ngay trong mười năm, tôi xem thấy Lão cư sĩ Lý sáng lập hai đạo tràng hoằng pháp là Liên Xã Đài Trung và Thư viện Từ Quang. Trong thời gian mười năm này có rất nhiều đại pháp sư, đại đức, cư sĩ đi ngang qua Đài Trung, Lão sư Lý nhất định đích thân đến bến xe nghinh tiếp, đích thân đưa tiễn đến bến xe, nhất định mời họ dùng cơm, cung kính cúng dường, lễ tiết rất chu đáo, nhưng không hề mời họ giảng khai thị; đừng nói đến giảng kinh, giảng khai thị cũng không mời giảng. Ban đầu tôi nhìn thấy việc này tôi luôn cảm thấy có chút kỳ lạ. Có một số pháp sư từ nước ngoài đến, lão sư tôn kính đối với họ như vậy, thế nhưng không mời họ giảng khai thị để họ kết chút pháp duyên với mọi người chúng tôi. Chúng tôi luôn cảm thấy Lão sư Lý dường như có chút ngạo mạn, không hề xem trọng người khác, thế nhưng trên biểu hiện của ông thì lại rất cung kính, một chút lễ tiết cũng không thiếu. Chúng tôi có nghi hoặc, lão sư nhìn thấy được, tuy chúng tôi không nói ra, nhưng bị thầy nhìn thấy được. Thầy triệu tập chúng tôi đến (số người không nhiều, khoảng mười người), rồi nói với chúng tôi: “Không phải là tôi không muốn mời ông ấy giảng khai thị. Ông ấy vừa khai thị thì tôi phải tốn rất nhiều thời gian làm cho tâm của đồng tu chúng ta mới có thể định lại được. Đó là những vị pháp sư tham Thiền, pháp sư học Giáo, pháp sư tu Mật. Tôi không dễ gì trong mười năm bồi dưỡng tín tâm niệm Phật của mọi người, hiện tại một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, nếu họ nói tham Thiền tốt hơn so với niệm Phật, tham Thiền minh tâm kiến tánh hay nói niệm chú, học mật Tức Thân Thành Phật, đồng tu chúng ta nghe rồi thì tín tâm liền lay động, như vậy có phải là việc phiền phức hay không?”. Cho nên, thầy không phải là không chịu mời họ giảng khai thị, mà thầy hộ pháp, giữ gìn thuần tín của đại chúng đối với Tịnh tông, thâm tín thiết nguyện, tuyệt đối không thể bị người phá hoại. Sau khi nghe thầy nói rõ ràng, chúng tôi mới bừng tỉnh hiểu ra, đó thật là người hộ pháp đại từ đại bi, bảo hộ mọi người. Không dễ dàng gì bồi dưỡng được chút tín-nguyện-hạnh này, làm sao có thể khinh xuất để người ta nói mấy câu thì liền dao động? Thế nhưng đại đức thời xưa cùng hiện tại khác nhau. Đại đức vào thời xưa chân thật là người có đức hạnh. Trong Phật pháp thường nói: “Nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có tăng khen tăng”, đôi bên tán thán lẫn nhau, Phật pháp chúng ta mới có thể hưng khởi. Thế nhưng hiện tại thông thường, nhất là pháp sư trẻ tuổi, chưa được nhận qua giáo huấn chính quy, họ không hiểu được đạo lý này, họ đến nơi đâu luôn là giới thiệu chính mình tu học con đường này là tốt. Họ có thành kiến, cho nên đối với các pháp môn khác họ liền có phê bình, như vậy thì rất dễ dàng dẫn người khác tu học sai. Việc này thông thường chúng ta gọi là không biết lễ phép. Nếu là một người rõ lý thì chúng ta đều có thể thỉnh, không những có thể thỉnh họ giảng khai thị, mà còn có thể mời họ giảng kinh. Vì sao vậy? Họ tán thán pháp môn của chúng ta, đối với đồng tu chúng ta có lợi ích lớn, họ hiểu được hộ trì chánh pháp. Việc này phải học qua, không học thì làm sao biết? Chúng ta ở dưới hội của Lão sư Lý, Lão sư Lý đã từng dạy bảo, cho nên chúng ta hiểu được, chúng ta có thể giữ lễ.
Năm 1977, tôi giảng “Kinh Lăng Nghiêm” ở Hồng Kông, Pháp sư Thánh Nhất đến tham gia pháp hội này của tôi, ông nghe Kinh rất hoan hỉ. Sau đó mời tôi đến Đại Tự Sơn – đạo tràng của ông để giảng một buổi khai thị, cùng đại chúng của ông kết pháp duyên. Đạo tràng của ông là đạo tràng Thiền tông, có hơn 40 người, mỗi ngày tọa hương, tuân thủ qui củ của thiền đường, rất khó được, thật không dễ dàng! Tôi xem thấy rất nhiều đạo tràng không hề chăm chỉ làm đạo như vậy. Ông mời tôi giảng khai thị. Tôi biết được tôi phải giảng cho họ nghe điều gì. Việc thứ nhất là tán thán Pháp sư Thánh Nhất, tôi nói pháp sư giỏi, có tu có học. Tôi không dám nói ông có chứng quả, nhưng tôi khẳng định ông có tu có học, dạy bảo một phương, tôi tán thán pháp sư. Việc thứ hai là tán thán đạo tràng, đó là một đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu đạo nghiệp của mọi người. Thứ ba là tán thán đại chúng, tán thán pháp môn của họ. Tôi tu Tịnh Độ, nhưng một chữ về Tịnh Độ tôi cũng không nhắc đến. Tôi tán thán thiền hay. Đến khi tôi rời khỏi đạo tràng đó, trên đường có một số người đưa tôi đi, có mấy người hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không! Vừa rồi ông luôn miệng tán thán thiền hay, vậy tại vì sao ông không tu thiền? Vì sao ông lại niệm Phật?”. Bạn thấy đấy, người đi theo tôi nghe lời nói này họ liền khởi nghi hoặc, vậy thì làm sao được? Tôi liền nói với họ: “Người thượng thượng căn mới có tư cách tham thiền. Tôi là người hạ căn, tôi rất muốn tham thiền nhưng không đủ tư cách, nên quay đầu lại thành thật niệm A Di Đà Phật”. Lời tôi nói đều là thật, không phải giả. Tôi tán thán họ đến tột đỉnh, làm cho đại chúng của họ càng có thêm lòng tin đối với Pháp sư Thánh Nhất. Họ xem thấy người từ bên ngoài đến, đối với Hòa thượng của chúng ta đều tán thán đến như vậy, bội phục đến như vậy thì đạo tâm của họ sẽ tăng trưởng, vậy mới là đúng. Pháp sư Thánh Nhất có tu hành, hiểu được, nếu ông đến đạo tràng của tôi nhất định tán thán niệm Phật, tuyệt đối sẽ không giảng Thiền tông. Đó chính là chân thật biết được hộ pháp. Người xưa thường nói: “Thà làm động nước trăm sông, không động tâm người tu niệm”. Họ đã tu pháp môn này mười năm, hai mươi năm thì bạn làm sao có thể tùy tiện dao động họ? Đó là một việc rất tàn khốc, thật không nên làm.
Những năm đầu tôi đến đây, khi tôi vừa học Phật liền nghe Pháp sư Diễn Bồi giảng kinh. Vào lúc đó tôi vẫn chưa xuất gia, tôi rất thân với ông, bởi vì khi ông giảng kinh thì tôi nhất định ngồi hàng đầu, mặt đối mặt, ngày ngày đều thấy nhau, cho nên rất quen mặt. Sau khi tôi xuất gia, ông rất ái hộ, rất là tôn trọng đối với tôi. Tôi gọi ông là lão sư, ông xem tôi như là bạn, quan hệ của chúng tôi là như vậy. Khoảng hai-ba năm đầu đến Singapore, ông đều đến phi trường tiếp tôi. Khi tôi rời khỏi, ông cũng đưa tôi đến phi trường. Về sau ông đến Đài Loan, ông rất vui ở tại Cơ Kim Hội chỗ tôi. Ông mời tôi đến đạo tràng của ông để giảng một buổi, kết duyên với tín đồ của ông. Tôi biết rõ ông tu Di Lặc Tịnh Độ, ông muốn sanh về cung trời Đâu Suất, không phải đi chung một đường với chúng ta, cho nên khi tôi đến chỗ ông giảng khai thị thì tôi đặc biệt tán thán Pháp Tướng Duy Thức Tông, tán thán Di Lặc Tịnh Độ, tôi không hề nhắc đến một chữ Di Đà Tịnh Độ của chúng ta. Đó là qui củ. Nếu bạn hiểu qui củ này, bạn đi đến bất cứ đạo tràng nào họ đều hoan hỉ mời bạn đến giảng khai thị. Bạn không hiểu qui củ này thì mọi người sẽ sợ bạn nói chuyện, vì bạn nói chuyện sẽ nhiễu loạn lòng người, sẽ phá hoại tín ngưỡng của mọi người, làm cho người ta hoài nghi. Cho nên, bất cứ nơi nào mời chúng ta, chúng ta phải hỏi thăm, dự liệu trước, họ tu pháp môn gì, tu được bao lâu, do người nào hướng dẫn? Nếu như đạo tràng đó của họ không phải chuyên tu pháp môn, vậy thì bạn có thể tùy tiện giảng. Đạo tràng đó của họ pháp sư nào cũng thỉnh, pháp môn nào cũng giảng, lộn xộn rối rắm, vậy thì không hề gì, không có gì để ngăn ngại, đầu óc của họ đã lộn xộn rối rắm rồi, họ không biết được pháp môn nào là đúng. Có một số đạo tràng không tìm được pháp sư hoằng dương Phật pháp, phàm hễ pháp sư nào đi ngang qua nơi đó thảy đều thỉnh hết tất cả, cả thảy đều mời để giảng kinh, giảng khai thị. Họ nói: “Pháp sư thích giảng gì thì cứ giảng, pháp nào chúng tôi cũng muốn nghe, pháp nào cũng đều muốn học”, sau cùng bất cứ thứ gì cũng đều không có thành tựu. Đạo tràng như vậy chúng ta cũng đã từng gặp qua. Do đây có thể biết, hoằng pháp có thể có được hiệu quả hay không, then chốt là ở hộ pháp.
Tôi còn đưa ra một thí dụ rất rõ ràng. Những năm đầu tôi đều đến Hồng Kông một, hai lần để giảng Kinh. Hồng Kông cách Đài Loan rất gần, máy bay bay một giờ thì đến. Năm xưa ở Hồng Kông chỉ có bà Lôi hộ trì, mỗi lần đều là bà mời tôi đến giảng Kinh. Sau khi bà Lôi qua đời thì không có người mời nữa. Năm trước trở lại Hồng Kông (tôi giảng Kinh ở Hồng Kông đại khái trước sau cũng có mười năm, cũng có một phần cảm tình đối với Hồng Kông), tôi đi xem thử, gặp được một số lão đồng tu. Những lão đồng tu này nói với tôi: “Pháp sư à! Đã bảy năm rồi ông không trở lại”. Tôi nói: “Thời gian đã lâu vậy rồi sao?”. Nhẩm lại thật không sai, đã bảy năm rồi tôi không đến. Tôi nói: “Không phải tôi không đến, mà vì không có người mời tôi đến. Tôi không thể tự mình đi đến. Nếu tôi tự đi đến, mọi người cự tuyệt tôi, tôi đến để làm gì?”. Cần phải có người đến tìm tôi, không có người mời thỉnh thì tôi không có cách nào. Muốn đến nơi đó để kết duyên với mọi người nhưng không có duyên phận, duyên không đầy đủ.
Ở Singapore cũng như vậy, chỉ có một mình cư sĩ Lý Mộc Nguyên. Vào năm 1987, lần đầu tiên tôi đến đây thì liền giảng qua một buổi ở Cư Sĩ Lâm, còn ở đoàn Hoằng Pháp Thanh Niên thì giảng qua hai lần, lúc đó đoàn trưởng của đoàn Hoằng Pháp Thanh Niên là Lý Mộc Nguyên. Qua ba lần gặp mặt ông thì liền kết duyên phận này. Lần đầu đến, tôi nhớ là tôi giảng ở chùa Song Lâm hai lần, ông sắp xếp tốt cho tôi giảng rất nhiều nơi, thế là tôi hiểu rõ hoàn cảnh nơi đó. Lần thứ hai chính là Lý mộc Nguyên mời tôi. Về sau, mỗi năm đều là do ông đến mời tôi. Các vị thử nghĩ xem, nếu như không có ông thì ai mời tôi đến Singapore? Không có người mời. Tôi cũng có quen biết được vài người, những người đó đều sẽ không mời tôi. Cho nên các vị thử nghĩ, hiện tại Singapore có nhiều người đọc “Kinh Vô Lượng Thọ”, nhiều người niệm Phật đến như vậy, hơn nữa Tịnh Tông ảnh hưởng cả Đông Nam Á. Mỗi năm Lý cư sĩ phải đến Trung Quốc rất nhiều lần. Năm trước, ông nói với tôi đã đi sáu lần. Đối với Phật giáo Trung Quốc cũng có ảnh hưởng rất lớn. Tôi không có công đức, công đức là hoàn toàn của ông ấy. Cho nên các vị đồng tu nhất định phải biết, nếu các vị muốn tu tích công đức thù thắng nhất thì nên làm hộ pháp. Bạn lên đài giảng kinh thì bạn là giáo viên, thế thì vì sao bạn không làm hiệu trưởng, vì sao bạn không làm đổng sự trưởng, làm ông chủ, hà tất phải lên đài làm giáo viên? Giáo viên là phước báo thấp nhất, là giáo viên nghèo, còn ông chủ là phước báo lớn, trí tuệ lớn. Trí tuệ lớn là gì? Ông có thể mời giáo viên, ông có chính sách giáo học tốt, có thể chân thật đem Phật pháp thúc đẩy mở rộng, ông là đại trí tuệ. Ông có tổ chức, có nhân lực, có tài lực, phước báo lớn. Nhất định có đại phước báo, đại trí tuệ thì mới có thể làm đại hộ pháp; không có phước báo, có chút trí tuệ thì đành phải học giảng kinh. Cho nên hoằng và hộ chúng ta cần phải phân định rõ ràng.
Các vị pháp sư trẻ tuổi tương lai có phước báo lớn, làm trụ trì một phương, làm lãnh đạo Phật giáo một phương, bạn phải có trí tuệ, mời thỉnh những vị pháp sư có thể giảng kinh. Pháp sư tu trì được rất tốt, giúp đỡ các vị giáo hóa một phương thì các vị có công đức chân thật. Giữ gìn chánh pháp là vô cùng quan trọng. Chánh pháp có thể cửu trụ thế gian hay không, có thể lợi ích chúng sanh hay không đều là ở sự khéo hộ trì. Khéo hộ trì chính là có phước đức, có trí tuệ. Trí tuệ có thể phán đoán được chân-vọng, có thể phân biệt được tà-chánh, có thể phân biệt được phải-quấy. Có phước báo thì họ có năng lực thúc đẩy. Có năng lực thì sức ảnh hưởng mới to lớn được. Đạo lý này chúng ta không thể không hiểu, cũng phải nên học tập. Đương nhiên sự việc này tuyệt nhiên không phải người nào cũng có thể làm được, thế nhưng chỉ cần phát tâm, cho dù phước báo, trí tuệ có kém một chút, thực tế mà nói, vẫn có thể làm được. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất hay: “Chúng ta không có phước báo, nhưng A Di Đà Phật có phước báo. Chúng ta không có trí tuệ, A Di Đà Phật có đại trí tuệ. Cả đời chúng ta chỉ cần dựa vào bên cạnh A Di Đà Phật, không có trí tuệ cũng biến thành có trí tuệ, không có phước báo cũng biến thành có phước báo. Dựa núi này thật tốt, chân thật dựa được chắc”. Lý Mộc Nguyên tìm được cái núi tốt để dựa, vì vậy từ mười năm qua, công việc của Phật giáo ông được thuận buồm xuôi gió. Cách dựa núi này của ông thật hay, dựa thật chắc, thật khiến cho người cảm động.
Lý Mộc Nguyên vào mười năm trước đã bị bệnh ung thư. Năm đầu tiên khi tôi gặp mặt ông, ông rất mập, giống như Bồ Tát Di Lặc vậy, cái bụng rất to, người rất tráng kiện. Tôi nghĩ có một số đồng tu đã gặp qua ông ấy, vẫn còn nhớ được. Năm thứ ba ông bỗng chốc liền ốm xuống, lúc đó tôi vẫn chưa chú ý đến. Ông nói với tôi, bác sĩ đã chẩn đoán ông bị bệnh ung thư. Bác sĩ nói với ông, thọ mạng của ông nhiều nhất chỉ còn sáu tháng nữa. Những báo cáo chẩn đoán này của ông, phim chụp X-quang hiện nay vẫn còn, ba-bốn mươi tấm phim chụp, nội tạng bên trong không có chỗ nào còn tốt. Ông là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Ông biết chính mình bị bệnh này đã không thể cứu, cho nên ông đem tất cả việc buôn bán trong nhà giao cho vợ ông, tài sản đều giao hết, thẻ tín dụng đều trả cho ngân hàng, trên người không còn bất cứ thứ gì, ở Cư Sĩ Lâm làm công quả, sống một ngày thì làm một ngày, đợi lúc vãng sanh. Bạn xem, ông đã đợi đến mười mấy năm, sức khoẻ càng ngày càng tốt, hiện tại đi kiểm tra lại thì không có thứ bệnh nào. Cho nên, giới y học ở Singapore cho là một kỳ tích, bởi vì ông không có khám bệnh, không hề tìm bác sĩ, không hề uống thuốc, ông đều buông bỏ tất cả. Sau khi chẩn đoán, có người giới thiệu cho ông một bác sĩ giỏi. Thư giới thiệu ông vẫn còn giữ lại, ông không đi tìm bác sĩ, chỉ niệm Phật, đợi Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Tế bào ung thư của toàn thân ông quả nhiên tiêu mất, không còn nữa, hơn nữa hiện tại thân thể khỏe mạnh, vượt qua người thông thường chúng ta. Ông nói với tôi, năm trước đi thăm viếng Trung Quốc đại lục, đến phương bắc là âm 2oC, ông chỉ mặc áo sơ mi, ông không lạnh. Mùa đông trong thân thể ông phát nhiệt ra bên ngoài, mùa hạ thì trong thân ông mát. Bạn xem, hiện tại thân thể của ông là đông ấm, hạ mát, thật không thể nghĩ bàn.
Các vị phải nên biết, tôi ở nơi đây đem đạo của Phật pháp giảng cho các vị nghe, các vị nghe rồi bán tín bán nghi, chưa chắc đã thật tin. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên hiện thân nói pháp, ông làm cho các vị xem, các vị có tin hay không? Ông làm ra cho các vị xem, các vị có thể có tín tâm kiên định như vậy, chí nguyện kiên định. Ông đem tất cả buông bỏ, ngay trong một đời này chân thật là hy sinh phụng hiến triệt để, vì Phật pháp, vì xã hội, vì chúng sanh. Ông cùng với A Di Đà Phật, cùng với chư Phật Như Lai đồng tâm, đồng nguyện, đồng hiểu, đồng làm. Cái thân của ông đã chuyển đổi. Mười năm trước bị bệnh phải chết, đó là nghiệp báo thân của ông. Hiện tại ông đem nghiệp báo thân của ông chuyển thành thân nguyện lực, trong “Kinh Hoa Nghiêm” nói “lực trì thân, nguyện thân”, nguyện thân chính là thừa nguyện trở lại. Phước báo của ông ngày nay là do đâu mà có? Là do chư Phật Như Lai gia trì, do tất cả chúng sanh có phước thì ông liền có phước. Ông hiện thân nói pháp ngay trước mắt chúng ta. Bạn thấy, ông thật có phước báo. Mỗi lần đi đến Trung Quốc Đại lục, ông dẫn theo đoàn mấy mươi người. Lần này ông đã đi rồi, ngày 8 sẽ trở về, nghe nói ông dẫn hơn một trăm người. Trong hơn một trăm người này, có người già đến hơn tám mươi tuổi, bạn thấy có người nào có gan lớn như vậy? Dẫn theo một số người già, nếu nhỡ người già bị bệnh hay xảy ra việc gì ở Đại lục thì phải làm sao? Bạn làm sao có thể gánh vác nổi. Trong lễ xưa của Trung Quốc chúng ta đều nói: “Bảy mươi không giữ lại đêm, tám mươi không giữ lại ăn cơm”. Người già bảy mươi tuổi không nên giữ lại trong nhà bạn, do nguyên nhân gì? Nếu nhỡ khi ở trong nhà bạn họ bỗng nhiên qua đời, người ta nói bạn mưu hại, bạn không thể nói rõ được với quan tòa, cho nên người bảy mươi tuổi không nên giữ họ lại trong nhà, nhưng có thể giữ họ ăn cơm. Nếu tám mươi tuổi, tuổi tác càng lớn thì không nên giữ lại ăn cơm, vì nếu nhỡ họ ăn cơm bị xảy ra chuyện gì thì phải làm sao? Thế nhưng ông Lý Mộc Nguyên rất to gan, người già bảy, tám mươi tuổi ông cũng dám dắt họ đi du lịch. Đây chính là tam bảo gia trì. Bạn thấy, đến Trung Quốc Đại lục nhiều năm như vậy, nhiều lần như vậy, dẫn theo nhiều người già như vậy để tham quan du lịch nhưng không hề có xảy ra việc gì, rất bình an để đi, rất bình an trở về, không phải là gia trì của Tam Bảo thì nhất định không thể làm được. Cho nên, tôi nói với mọi người, Lý Mộc Nguyên là một Bồ Tát sống. Nếu các vị muốn đi du lịch, đi theo ông thì nhất định không có vấn đề, bạn đi với người khác thì tôi không dám bảo đảm. Nếu ông không dẫn người già thì ông dẫn trẻ con. Ông nói với tôi, ông bằng lòng dẫn hai loại người này, vì hai loại người này chịu nghe lời. Ông không chịu dẫn người trẻ, vì người trẻ tuổi không nghe lời. Cho nên có một lần ông dẫn theo hơn một trăm em nhỏ đến Phúc Kiến tham quan di lịch. Ông không dẫn người già thì dẫn trẻ nhỏ. Đây là ông làm cho chúng ta xem. Bạn thấy đời sống của ông, ăn uống rất đơn giản. Người ta tặng ông đồ gì ngon, đồ dinh dưỡng, đồ bổ, ông liền chuyền tay tặng cho người khác, bản thân mình không cần đến. Chúng ta đọc kinh Phật, nghe được diễn giảng của tôi ở nơi đây, lại thấy cư sĩ Lý Mộc Nguyên thì phải nên sanh khởi tín tâm, phải nên chăm chỉ nỗ lực tu học. Đó mới là phước báo chân thật, đó mới là an vui chân thật. Bạn xem, ông ấy toàn tâm, toàn lực giúp đỡ cho Phật giáo Trung Quốc hưng vượng. Chúng ta biết Trung Quốc an định là cả thế giới an định. Trung Quốc đất rộng, người đông (một tỉ ba dân số), là trung tâm của thế giới. Nếu chúng ta muốn toàn thế giới an định, người trên toàn thế giới đều có thể được hạnh phúc mỹ mãn thì nhất định phải giúp đỡ Trung Quốc. Ông toàn tâm toàn lực làm như vậy nên được Phật Bồ Tát phù hộ, gia trì, không phải không có đạo lý. Việc ông làm hôm nay là việc làm công đức hy hữu. Ông thể hiện ra như vậy, sức mạnh đó của ông từ đâu mà có vậy? Là tất cả quí vị ở phía sau giúp đỡ ông. Nếu quí vị không bỏ tiền bỏ sức giúp ông, thì ông cũng không thể làm được việc gì cả. Những liên hữu ở Singapore, những liên hữu ở Cư Sĩ Lâm là hậu thuẫn của ông. Những điều ông làm chính là của tất cả bạn đồng tu ở Cư Sĩ Lâm cùng Tịnh Tông Học Hội, ông chỉ là đại diện. Đây là mọi người đồng tâm hiệp lực, vì tam bảo, vì xã hội, vì chúng sanh mà làm nên việc tốt này. Ông có phước báo, mỗi người các bạn đây cũng đều có phước báo. Nhất định phải hiểu được bản thân các bạn đã làm chuyện công đức chân thật, việc tốt đích thực.
Hộ trì chánh pháp xin báo cáo với quí vị đến đây.
Thứ chín, Phật dạy chúng ta niệm Phật ở trong “nghịch thuận thập tâm”, không hề dạy chúng ta phải niệm một vị Phật nào, nhưng Ngài dạy chúng ta “niệm mười phương Phật”. Cách niệm mười phương Phật như thế nào? Chư vị đồng tu cần phải biết, mười phương Phật chính là Phật A Di Đà. Tôi không hề nói sai.
Vì sao vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, mười phương tất cả chư Phật Như Lai đều niệm A Di Đà Phật, vậy chúng ta niệm A Di Đà Phật chẳng phải là niệm mười phương Phật hay sao? Nếu bạn không tin tưởng, nếu bạn ngày ngày đi lạy “Vạn Phật Danh Kinh”, mỗi ngày đem ra đọc một lần mười hai ngàn danh hiệu Phật, đọc đến mệt chết người, nhưng có niệm được mười phương Phật hay không? Không hề niệm được. Mười phương chư Phật là vô lượng vô biên, bạn mới niệm có mười hai ngàn danh hiệu, vậy thì còn sót quá nhiều. Bạn niệm một câu A Di Đà Phật thì không sót một vị Phật nào. Vì sao vậy? Phật nói rất rõ ràng, mười phương ba đời tất cả chư Phật đều niệm A Di Đà Phật. Cho nên, bạn tụng “Kinh Vô Lượng Thọ” thì bạn đã tụng hết tất cả Kinh mà chư Phật đã giảng. Vì sao vậy? Mười phương ba đời tất cả chư Phật, không một vị Phật nào mà không giảng “Kinh Vô Lượng Thọ”, các Kinh khác không nhất định sẽ giảng, nhưng “Kinh Vô Lượng Thọ” thì nhất định phải giảng, câu “A Di Đà Phật” nhất định phải niệm. Niệm mười phương Phật chính là niệm A Di Đà Phật, chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này. Bộ kinh này chính là giới thiệu Thế giới Tây Phương Cực Lạc cho chúng ta, chính là khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta phải ở ngay chỗ này xây dựng tín tâm kiên cố.
Thứ mười, Phật dạy chúng ta “quán tội tánh không”. Đây là trí tuệ chân thật. Trong Kinh thường hay nói “vạn pháp giai không”, xin nói với các vị, tội nghiệp cũng là một trong vạn pháp, tội báo cũng là một trong vạn pháp, nó có phải là “không” hay không vậy? Là không. Một không thì tất cả không, vậy tội của bạn chân thật là được diệt. Việc này phía trước đã nói qua sám hối với các vị. Sám hối thông thường nói có ba loại là phục nghiệp chướng, chuyển nghiệp chướng, diệt nghiệp sám. Quán tội tánh không là thuộc về diệt nghiệp sám. Ngay chỗ này, chúng ta phải rất tỉ mỉ mà thể hội, sợ hiểu sai đi ý nghĩa thì phiền phức sẽ rất lớn. Phật nói quán tội tánh không, nếu bạn nghĩ không cần lo, làm tội nhiều một chút cũng không hề gì, vậy thì bạn hỏng rồi. Ngày nay bạn có “quán không” được hay không? Nếu như quán không, việc đầu tiên là ngã không, nhân không, vạn pháp đều không thì mới được. Nếu như có pháp nào không không thì tội nghiệp liền có, quả báo liền hiện tiền. Bạn phải hiểu rõ đạo lý này, vạn nhất không nên hiểu sai ý này. Cho nên Phật đem câu nói này xếp vào ở điều sau cùng. Ở vào điều sau cùng, chân thật là bạn có thể niệm Phật đạt đến lý nhất tâm bất loạn, bạn lại quán tội tánh không, vậy thì được. Sự nhất tâm bất loạn đều không được, phải đến được lý nhất tâm bất loạn, hay nói cách khác, bạn đã đoạn kiến tư phiền não, đoạn trần sa phiền não, phá một phần vô minh thì bạn siêu việt mười pháp giới, vãng sanh Tây Phương là sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi Thường Tịch Quang, vậy bạn mới có thể tu diệt nghiệp sám, mới có thể tiêu diệt tội nghiệp. Thực tế mà nói, ở hiện tiền chúng ta, chuyển nghiệp sám là thù thắng nhất, cao minh nhất, chúng ta có thể chuyển nghiệp được thì tốt.
Cư sĩ Lý Mộc Nguyên chính là chuyển nghiệp sám, ông bị bệnh này là do nghiệp báo, ông có thể chuyển. Ta phải nên biết, ông có thể chuyển thì ta cũng có thể chuyển. Tôi nhớ lại ngày trước khi ở Singapore giảng kinh, tôi đã từng nói qua với các vị là tôi cũng đoản mạng, rất nhiều người xem tướng đoán mạng cho tôi đều nói tôi không thể sống được qua 45 tuổi. Thế nhưng tôi cũng là chuyển nghiệp, cả đời này học Phật thì ngay đời này chuyển, đích thực là có thể chuyển, không phải không thể chuyển. Tôi chuyển còn nhẹ nhàng hơn Lý Mộc Nguyên, ông còn mang một chút bệnh, tôi chỉ bệnh qua một tháng. Vào năm 45 tuổi, tôi đã bị bệnh hết một tháng. Tuy là không có người nào nói với tôi, nhưng tôi biết được tuổi thọ của tôi đến rồi, cho nên tôi cũng không đi tìm bác sĩ, cũng không uống thuốc, mỗi ngày ăn một ít cháo lỏng với một ít rau, niệm A Di Đà Phật chờ vãng sanh. Tôi niệm qua được một tháng thì hết bệnh, không việc gì. Đó là chuyển nghiệp.
Chúng ta đích thực là có thể chuyển, chỉ cần chân thật chịu phát tâm. Vì thế Thế Tôn nói với chúng ta, một người y theo răn dạy của Phật tu “mười tâm nghịch thuận”, mười loại tâm thuận theo sanh tử (chúng ta thường gọi là tâm luân hồi, nghiệp luân hồi) chúng ta nhất định phải đoạn, sau đó mới tu mười loại tâm nghịch theo sanh tử này, đó chính là siêu việt ba cõi sáu đường. Phương pháp tu hành này chúng ta nhất định phải rất chăm chỉ, rất nỗ lực mà tu học. Tất cả tội nghiệp của chúng ta đã tạo trong đời quá khứ hay tội nghiệp đã tạo ngay trong đời này đều có thể sám trừ. Thực tế mà nói, ở trong sáu đường, mỗi một người, mỗi một chúng sanh, ngay trong đời quá khứ (đời quá khứ không phải là đời này, đời quá khứ còn có đời quá khứ nữa, quá khứ trong vô lượng kiếp) chân thật là không có ác nào mà không làm. Chúng ta tạo tác ra tội nghiệp quá nhiều, quá lớn. Nếu như không tạo tội nghiệp thì làm sao có cái thân này? Làm sao có thể chịu loại quả báo này? Ngày nay chúng ta được thân này, thân này thường hay sanh bệnh, thường hay đau bệnh, chỗ nào vừa bị đau nhức là nghiệp báo hiện tiền. Chính mình phải rõ ràng, phải thông suốt, đó đều là nghiệp báo hiện tiền. Nghiệp báo này có nhân, không phải cái nhân đời này tạo, mà chính là cái nhân đời quá khứ đã tạo. Hiểu rõ rồi, đã tường tận rồi thì từ này về sau, chúng ta dùng ba nghiệp thân-ngữ-ý y theo răn dạy của Phật Đà mà sám hối.
Nếu như không nhớ được rõ ràng lời dạy của Phật, bạn thấy chúng ta không hề nói quá nhiều, hai ngày nay, bao gồm cả tuần trước, tổng cộng có sáu giờ đồng hồ giảng cho các vị hai mươi điều. Hai mươi điều này không nhớ được thì phải làm sao? Nghe ra thì dường như không tệ, gật đầu, ra khỏi cửa thì quên hết. Làm thế nào mới có thể tu pháp sám hối có hiệu quả? Tôi lại nói với các vị một phương pháp rất đơn giản (hai mươi điều này thảy đều bao gồm trong đó), đó là “niệm Phật”, miệng niệm A Di Đà Phật, tâm tưởng A Di Đà Phật, thân lạy A Di Đà Phật, ba nghiệp của chúng ta đều cung kính A Di Đà Phật, vậy thì được rồi. Sáu giờ đồng hồ đã giảng toàn bộ thảy đều bao gồm trong đó, rất có hiệu quả. Cho nên, trong nhà chúng ta cúng một tượng A Di Đà Phật, thường hay tưởng một vị Phật này, trong lòng của bạn liền thật có Phật. Cúng tượng Phật, chúng ta chỉ nên cúng một vị, không nên thường hay đổi, vì nếu thường hay đổi thì khi thì bạn tưởng vị này, khi thì tưởng vị kia, vấn đề phiền phức liền đến, đến khi lâm chung rốt cuộc thì A Di Đà Phật hiện ra tướng gì để tiếp dẫn ta? Cho nên, tốt nhất cả đời chỉ cúng một tôn tượng của A Di Đà Phật.
Khi tôi mới bắt đầu học Phật, có một vị lão cư sĩ tặng tôi một tượng A Di Đà Phật bằng sứ, cũng rất nổi tiếng, là đầu năm nhà Thanh, đại khái cũng có hơn 300 năm lịch sử, hiện tại được cúng ở trong Thư viện Hoa Tạng của chúng ta tại Đài Loan. Tôn tượng này rất hiếm, chúng tôi thường hay đi khắp nơi, cho nên tôi liền thỉnh tượng Phật ra, chụp hình tượng Phật này. Sau khi chụp rồi, tôi liền in ấn số lượng lớn. Tôi đã in sắp gần một trăm mấy chục ngàn tấm, phân tặng cho mọi người cúng dường. Hiện tại đi đến bất cứ nơi đâu, tôi đều mang một cuộn, không luận đến nơi nào, tôi nhìn thấy chính là tượng Phật này, như vậy ấn tượng của tôi sẽ rất sâu với tượng Phật này. Mấy năm gần đây nhất, Đài Loan điêu khắc tượng Phật rất tiến bộ, họ chiếu theo kiểu dáng đó khắc ra cho tôi một tượng cũng rất giống. Hiện tại dường như đã làm ra khuôn rồi, giống như tượng Phật này. Ở Đài Loan đại khái đã có một hai trăm tượng rồi. Tượng này điêu khắc rất đẹp, rất khó được. Cho nên nói là thường hay tưởng Phật, không nên khởi vọng tưởng, không nên nghĩ thứ khác, nghĩ thứ khác thì là tạo tội nghiệp. Chúng ta ngày ngày tưởng Phật, niệm Phật, lạy Phật. Nhất là người trung niên trở lên, hiện tại vận động quá ít, ra cửa là ngồi xe, ở tại nhà thì ngồi sa lông rất là thoải mái, đều ít vận động. Nếu không động thì cái máy này dần dần sẽ lão hóa, nó liền sanh ra bệnh tật, cho nên nhất định phải vận động. Vận động lạy Phật là vận động tốt nhất, không hề rời khỏi Phật. Bạn mỗi ngày lạy một trăm lạy, một trăm lạy có thể phân thành hai lần, sáng sớm năm mươi lạy, buổi tối năm mươi lạy, đây là một vận động rất tốt. Vận động cũng không rời khỏi ba nghiệp cung kính, bạn thấy tốt dường nào. Thật là thân động nhưng tâm không động. Trong tâm này đều là tưởng Phật, nhớ Phật, niệm Phật, đó là pháp sám hối thù thắng nhất.
Vào năm đầu nhà Thanh, Từ Vân Quán Đảnh Pháp sư trước tác rất là phong phú. Trong “Vạn Tục Tạng Kinh” Nhật Bản thâu tập trước tác của ông có mười loại, trong đó có một bộ sớ “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” (chính là chú giải của “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”). Trong đó Ngài nói với chúng ta: “Tất cả chúng sanh tạo tội nghiệp ngũ nghịch cực trọng, bất cứ kinh luận sám pháp nào đều không cách gì sám trừ tội nghiệp đó của bạn. Sau cùng còn có một cách là niệm A Di Đà Phật có thể sám trừ tội nghiệp của bạn”. Cho nên các vị phải nên biết, nếu các vị muốn cầu sám hối, muốn cầu tiêu tai diệt tội thì pháp nào có hiệu quả nhất? Niệm “A Di Đà Phật”! Lời nói của Ngài là có căn cứ, không phải tùy tiện nói. Ngài căn cứ ở đâu? Ngài chú giải “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”, công án này ở ngay trong “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh”. Trong “Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh” Vua A Xà Thế nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa rất là đố kỵ đối với thành tựu hoằng pháp lợi sanh của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ông rất thông minh, luôn là tìm mọi phương cách để phá hoại Phật pháp, trừ bỏ đi Thích Ca Mâu Ni Phật để ông thay thế vào. Đó là bá đồ của ông ấy. Ông ấy xúi giục vua A Xà Thế (vào lúc đó vua A Xà Thế còn là thái tử), dạy ông mưu hại, dùng lời hiện tại mà nói chính là lật đổ, đoạt lấy ngôi vua của cha ông. Vua A Xà Thế nhất thời hồ đồ, giết phụ thân, hại mẫu thân, bắt mẹ ông giam lại, ông lên làm quốc vương. Đề Bà Đạt Đa nói: “Ngài làm quốc vương mới, ta làm Phật mới. Hai chúng ta hợp tác để thống trị quốc gia”. Ông tạo ra tội ngũ nghịch thập ác, giết cha, hại mẹ, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu, ông thảy đều làm hết. Tội nghiệp như vậy thì bao gồm tất cả pháp sám hối trong kinh luận của Phật đều không cách gì có thể sám trừ tội nghiệp của ông ấy. Vua A Xà Thế đến lúc lâm chung mới hối hận, mới sám hối, niệm A Di Đà Phật, một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ông thật đã được vãng sanh. Cho nên pháp môn Tịnh Độ thật rất tốt, tạo tội nghiệp ngũ nghịch thập ác phải đọa A Tỳ địa ngục mà còn được cứu, chỉ cần bạn chân thật sám hối, thật hồi đầu. Trong “Đại Tạng Kinh” có một bộ “A Xà Thế Vương Kinh”, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng những sự tích trong đời của ông. Chúng ta nghe Phật nói ở trên Kinh, ông vãng sanh thượng phẩm trung sanh, phẩm vị tương đối cao, đích thực là không thể tưởng tượng ra được. Sự thật này khiến chúng ta sâu sắc cảm nhận, những người ác tạo tác tội nghiệp ở thế gian chúng ta nhất định không dám khinh khi họ. Vì sao vậy? Có lẽ họ đến lúc lâm chung sám hối vãng sanh phẩm vị còn cao hơn chúng ta, chúng ta vẫn không thể sánh với họ. Cho nên, vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc là hai hạng người. Một là người bình thường niệm Phật, đoạn ác tu thiện tích công bồi đức, đó là chín phẩm vãng sanh. Ngoài ra còn một loại là khi lâm chung sám hối vãng sanh, những người này luôn luôn vãng sanh phẩm vị không thể nghĩ bàn, như chúng ta ở trên kinh xem thấy vãng sanh của vua A Xà Thế.
Trong lịch sử Trung Quốc có Pháp sư Oánh Kha, việc vãng sanh của ông tuy là chúng ta không biết ở phẩm vị nào, thế nhưng ở trong tưởng tượng của chúng ta thì phẩm vị nhất định không thấp. Đó là sám tội vãng sanh, chính mình chân thật biết được chính mình làm sai. Pháp sư Oánh Kha là một người không giữ thanh qui, không giữ giới luật, một người xuất gia tạo tội nghiệp. Chỗ hay của ông chính là ông tin tưởng nhân quả báo ứng, ông chính mình biết được những gì mình đã làm thì tương lai nhất định đọa địa ngục. Nghĩ đến đọa địa ngục ông liền lo sợ, đó là cái tốt của người này. Hiện tại có rất nhiều người khi nói đến địa ngục thì họ không sợ, cái gan này thì thật lớn, ta không thể không bội phục họ. Oánh Kha nghĩ đến đọa địa ngục thì lo sợ, cho nên ông liền thỉnh giáo với các đồng đạo là có biện pháp gì giúp ông không. Trong đồng đạo có một người đưa cho ông quyển “Vãng Sanh Truyện”, bảo ông xem. Ông xem thấy những người niệm Phật vãng sanh trong “Vãng Sanh Truyện”, ông rất là cảm động, thế là ông hạ quyết tâm, đóng phòng của mình lại, chỉ niệm A Di Đà Phật. Ông không ngủ, không ăn cơm, cũng không uống nước, chỉ một mạch niệm A Di Đà Phật. Ông niệm được ba ngày ba đêm quả nhiên niệm ra được A Di Đà Phật. Cho nên nói: “Thành tắc linh”. A Di Đà Phật đến nói với ông: “Ông vẫn còn mười năm dương thọ, ông cố gắng mà tu học. Sau mười năm, đến khi ông lâm chung, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Pháp sư Oanh Kha nghe rồi liền thỉnh cầu với A Di Đà Phật, vì ông biết được tập khí của chính mình quá nặng, không cưỡng nổi mê hoặc, bên ngoài vừa dẫn dụ thì ông lại phải tạo tội nghiệp, ông biết được căn tánh của ông, cho nên ông nói: “Dương thọ mười năm con không cần. Hiện tại con muốn đi theo Ngài, nếu không thì ngay trong mười năm lại không biết là tạo thêm bao nhiêu tội nghiệp”. A Di Đà Phật nghe rồi, liền gật đầu nhận lời ông. Ngài nói: “Như vậy tốt hơn. Ba ngày sau, ta sẽ trở lại tiếp dẫn ông”. Việc này ông vô cùng hoan hỉ, ba ngày quá tốt, ông liền mở cửa phòng ra, nói với đại chúng trong chùa: “Ba ngày sau A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn tôi vãng sanh”. Người trong chùa nhìn thấy ông, cảm thấy đầu óc của ông có vấn đề, con người xấu đến như vậy, không phải là một người xuất gia tốt, ba ngày sau ông có thể vãng sanh sao? Vừa mới đóng cửa ba ngày, không biết được ở bên trong đó làm những việc gì, vừa mở cửa ra thì nói ba ngày sau ông sẽ vãng sanh. Được rồi! Thời gian ba ngày rất ngắn, mọi người chờ ba ngày sau xem thử ông có vãng sanh hay không. Đến ngày thứ ba, ông đi tắm, thay đổi bộ quần áo mới, trai giới tắm gội. Khi tụng khóa sớm, ông yêu cầu các đồng tu đưa tiễn ông, không tụng theo thời khóa thông thường, mà tụng Kinh A Di Đà, niệm A Di Đà Phật để tiễn ông. Các bạn đồng tu đương nhiên cũng rất hoan hỉ, đây là việc tốt, khóa sớm hôm nay chúng ta chỉ niệm A Di Đà Phật. Niệm được đại khái khoảng một khắc (một khắc chính là mười lăm phút), Pháp sư Oánh Kha liền nói với mọi người: “A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi rồi”. Ông từ biệt với mọi người rồi liền đi. Bạn xem, ông không hề có bệnh, chỉ niệm có ba ngày ba đêm, thời gian không dài. Vì sao ông có thể vãng sanh? Các vị thử nghĩ xem, trong ba ngày ba đêm này cùng với nguyên lý nguyên tắc trên “Kinh Vô Lượng Thọ” đã nói là hoàn toàn tương ưng: “Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm A Di Đà Phật”, cũng hoàn toàn tương ưng với Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Ông niệm câu Phật hiệu ba ngày ba đêm, không xen tạp, không hoài nghi, không gián đoạn, đích thực là tịnh niệm liên tục, cho nên tội của ông đều tiêu hết, cảm được Phật đến tiếp dẫn. Cho nên sám tội này không thể không sám trừ được, vấn đề là bạn có thật phát tâm hay không, có phải chân thật muốn sám hối hay không? Nếu bạn chân thật muốn sám hối thì bạn phải học Pháp sư Oánh Kha. Ông chính mình tạo tội nghiệp nhưng không che giấu người, chính mình rõ ràng tường tận, biết chính mình đã tạo tác những gì, tương lai nhất định phải đọa địa ngục, ông có dũng khí dám nói ra. Khi nghĩ đến địa ngục thì ông lo sợ, ông chân thật cầu sám hối thì ông thật có thành công. Đó là tấm gương tốt cho chúng ta.
Từ những bậc thánh nhân thế xuất thế gian dạy bảo chúng ta, ở ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta phải nên chú ý điều gì? Khổng Lão Phu Tử nói: “Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”, nhà Phật dạy chúng ta: “Đại từ đại bi, oán thân bình đẳng”, đó là ở ngay trong cuộc sống tu pháp sám hối. Người khác đối với ta tốt, vậy là họ có ân với ta, chúng ta phải tri ân báo ân. Tại sao trên thế gian hiện tại, người vong ân phụ nghĩa nhiều đến như vậy? Họ không biết được ân đức, nói lời hơi khó nghe một chút là không biết được tốt xấu. Bạn nói xem, còn có cách nào không? Không những là người thông thường rất khó phân biệt, mà người nhận qua giáo dục cao đẳng cũng vậy. Chúng ta ở nước ngoài thấy những người nhận được học vị tiến sĩ, có địa vị tương đối ở trong xã hội, cũng tương đối có tiếng tăm, nhưng họ không biết ân nghĩa, không biết cái gì gọi là ân đức, vậy thì họ làm gì biết được báo ân? Thật là thấy lợi quên nghĩa. Họ làm việc ở trong công ty, đương nhiên là họ rất ưu tú, họ có kỹ thuật, họ có năng lực. Khi công ty khác biết được, đến nói với họ: “Anh đến chỗ tôi đi, tôi sẽ cho anh chức vụ cao hơn bên kia, cho anh sự đãi ngộ tốt hơn bên kia”. Họ vừa nghe thì liền từ chức bên kia, vội vàng đi qua bên này. Họ không biết được thân phận địa vị của họ là do người ta mang đến cho họ. Sau khi họ có địa vị rồi, quyền lợi ở nơi khác cao hơn một chút thì liền đi đến nơi đó. Thật đáng trách! Thấy lợi quên nghĩa, không biết được ân đức, đó chính là tạo tác tội nghiệp. Cho nên ngay đến thánh nhân thế gian đều dạy chúng ta “dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”, chúng ta phải tri ân báo ân. Cho dù người khác hủy báng chúng ta, nhục mạ chúng ta, hãm hại chúng ta, chúng ta cũng dùng tâm thanh tịnh đối đãi với họ, dùng tâm chân thành đối với họ, đó là dĩ trực báo oán. Cái trực này chính là trực tâm mà nhà Phật đã nói, chính là tâm chân thành cung kính, chúng ta vẫn là dùng tâm chân thành tâm cung kính đối với họ. Đó là đạo lý làm người. Vì sao vậy? Tuyệt đối không kết oán thù với người khác. Phải nên biết, sau khi kết oán thù rồi thì đời đời kiếp kiếp báo không cùng tận, tương báo lẫn nhau, đến lúc nào thì mới kết thúc? Ngày nay người khác hủy báng ta, nhục mạ ta, hãm hại ta, đó là quả báo của chúng ta. Vì sao họ không hủy báng người khác, không hãm hại người khác, mà họ lại hãm hại ta? Nhất định là trong đời quá khứ của ta đã huỷ báng họ, hãm hại họ, ngày nay gặp lại họ thì họ hủy báng ta, hãm hại ta, tương báo lẫn nhau, vậy thì phải nên tiếp nhận thôi, cái nợ này chẳng phải đã trả xong rồi sao? Ta không còn tâm oán hận nữa, không còn có tâm báo thù nữa thì nợ này đến đây đã kết thúc, không còn gì nữa. Cho nên chúng ta phải dùng tâm chân thành cung kính để đối đãi với những người này thì nợ này liền trả xong. Không nên đời đời kiếp kiếp báo tới báo lui, thật phiền não. Đây là Phật dạy cho chúng ta, đó mới chân thật là phương pháp thông minh trí tuệ, giải quyết được vấn đề. Chúng ta không nên làm cho vấn đề phức tạp hơn, phải đem vấn đề giải mở. Giải mở rất thỏa đáng, rất viên mãn thì chúng ta trên đạo Bồ Đề mới được thuận buồm xuôi gió, mới không có chướng ngại. Trên Kinh Phật còn nói với chúng ta: “Ư nhất thiết xứ, nhi bất trụ tướng”, trên “Kinh Bát Nhã” thường nói: “Ly nhất thiết tướng, tức nhất thiết pháp”, không nên đem những pháp tướng này để ở trong lòng, bao gồm tất cả hiện tượng đều không để ở trong lòng. Đối với tất cả hiện tượng không nên sanh ưa ghét, thuận với ý của mình không nên có tâm tham ái, không thuận theo ý mình cũng không nên có tâm sân hận; ở trong thuận cảnh-nghịch cảnh, người thiện-người ác mà tu tâm thanh tịnh của chính mình, tu tâm bình đẳng của chính mình, đó gọi là thật tu hành. Cho nên hiểu được đời sống chân thật hạnh phúc mỹ mãn, đó là gì vậy? Tâm an lý đắc. Không luận ở trong hoàn cảnh nào, tâm của bạn vĩnh viễn là an định, vĩnh viễn không bị cảnh giới bên ngoài dao động, bạn mới chân thật trải qua ngày tháng hạnh phúc. Người xưa Trung Quốc chúng ta thường nói “đạm bạc minh trí”, đời sống càng đơn giản thì đời sống càng khỏe mạnh. Ở ngay trong đó then chốt nhất chính là tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần.
Hiện tại thế gian này ô nhiễm rất nghiêm trọng. Ở bên trong thì ô nhiễm ở trong tâm, ô nhiễm tinh thần, ô nhiễm tư tưởng, ô nhiễm kiến giải vô cùng nghiêm trọng. Dùng phương pháp gì để phòng bị? Dùng phương pháp gì để đối trị? Dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Tâm địa của chúng ta thanh tịnh thì không bị ô nhiễm, trước sau giữ gìn tâm thanh tịnh, giữ gìn tâm bình đẳng. Trong tâm bình đẳng, quan trọng nhất là oán thân bình đẳng. Oán thân có thể bình đẳng thì tất cả những thứ khác đều bình đẳng. Hiện tại chúng ta là phàm phu, khi mới học, chúng ta sẽ bị ảnh hưởng của hoàn cảnh, cho nên đối với hoàn cảnh không thể không xem trọng. Đến khi bạn chân thật có công phu, hoàn cảnh không ảnh hưởng bạn, vậy thì không hề gì. Hoàn cảnh chính là con người chúng ta thường hay nói phong thủy.
Phong thủy là gì vậy? Là ảnh hưởng của hoàn cảnh. Chúng ta chính mình nếu muốn thân tâm an ổn, bình bình an an, thì nơi hoàn cảnh của chúng ta ở phải bình. Cho nên nếu bạn chịu lưu ý một chút, bạn xem thấy người xưa Trung Quốc xây một cái nhà, xây một nhà vườn phải được tiếp nối nhiều đời. Vào thời xưa, bạn xây dựng một tòa nhà, nếu như không thể duy trì được 300 năm thì người ta sẽ không mời bạn đến xây cất cho họ. Bạn xây dựng một ngôi nhà chí ít phải có thể sử dụng được 300 năm, bạn làm một cái ghế chí ít phải có thể dùng được một trăm năm. Đồ gia dụng này của Trung Quốc hiện tại gọi là đồ cổ, không phải nói dùng vài ngày rồi thì không cần nữa, thì đổi cái khác, làm gì có chuyện xa xỉ vậy, bạn có phước báo bao lớn? Cho nên người Trung Quốc rất xem trọng đối với hoàn cảnh nơi ở, biết được xây dựng nhà phải tứ bình bát ổn, người ở trong đó thân tâm yên ổn. Chúng ta xem thấy nhà cửa của người nước ngoài không phải như vậy, nhà ở nước ngoài rất kỳ lạ, đặc biệt là có rất nhiều góc nhọn, người ở trong nhà như vậy tâm sẽ không bình, cho nên người nước ngoài ở một vài năm thì cắm một cái bảng bán nhà, dọn đi, họ thường hay dọn nhà như dân du mục. Họ không có gốc, người Trung Quốc có cố hương, người ngoại quốc không có cố hương. Người nước ngoài có thể ở một nơi qua được năm năm là rất ít, hai-ba năm thì họ dọn nhà. Tỉ mỉ mà xem thử thì quả nhiên không sai, nhà xây rất kỳ lạ, cái nhà đó không thể ở, ở nơi đó thân tâm đều không an ổn. Hiện tại một số người Trung Quốc trẻ tuổi làm nghề xây dựng cũng học người ngoại quốc xây một cách kỳ lạ, cho nên người ở trong đó tâm của họ cũng kỳ kỳ quái quái, như vậy thì xã hội đó làm sao có thể an ổn được? Họ không có công phu, Phật Bồ Tát ở thì không vấn đề gì, các Ngài không bị ảnh hưởng, còn phàm phu chúng ta bị hoàn cảnh ảnh hưởng (hiện tại nhà khoa học gọi hoàn cảnh là từ trường), họ bị từ trường này ảnh hưởng. Việc này chúng ta không thể không chú ý. Cho nên các vị muốn mua nhà, thì nhà đó phải được xây dựng rất bình ổn, không nên có quá nhiều góc cạnh. Góc nhiều thì phiền não lớn. Nhà của bạn ở không phải là hình vuông, mà là hình chữ nhật hay hình tròn cũng được, không nên có góc. Hiện tại rất nhiều nhà của người nước ngoài luôn luôn ngay cửa cái bị cắt đi một góc. Loại nhà như vậy, người ở trong đó không quá một trăm ngày nhất định sẽ nghĩ tưởng xằng bậy. Căn phòng đó làm phòng khách thì được, người vạn nhất không nên ở nơi đó, vì ở chỗ đó nhất định sẽ khởi vọng tưởng. Cho nên nhất định phải chánh đại quang minh, qui củ trật tự. Giảng đường là hình chữ nhật thì phải là hình chữ nhật, không nên đem cắt đi một góc như vậy. Đó là vì chúng ta bị ảnh hưởng của hoàn cảnh.
Chúng ta nhất định phải chọn lựa hoàn cảnh cư ngụ tốt, chọn lựa thức ăn khỏe mạnh. Ăn uống không cần phải nhiều, không nên nhiều màu sắc quá, cũng không cần phải đồ bổ cao quí gì. Đồ bổ cao quí là bổ cho người khác, chịu thiệt ở nơi mình, chính mình rất cực khổ kiếm ra tiền, mua những thứ này để họ kiếm lời to, phát tài. Khi mang về, thực tế mà nói, đều là giả. Bạn xem, tổ yến nơi đây giá tiền rất cao, có dinh dưỡng hay không vậy? Không hề có. Chưng một cái tổ yến, dinh dưỡng chân thật là ở đường phèn. Tổ yến không có dinh dưỡng, đường phèn rất tốt, có dinh dưỡng. Tiền chẳng phải đã bị người gạt đi mất rồi sao? Bổ cho ai vậy? Bổ cho người bán tổ yến. Người hiện tại thực tế mà nói, chân thật là nghe gạt, không nghe khuyên. Khuyên bạn thì bạn không tin, lừa gạt thì bạn tin. Báo chí, tạp chí đăng những quảng cáo này toàn là gạt người, làm gì là thật? Cho nên đời sống càng đơn giản bình dị càng tốt, tâm địa thanh tịnh, ăn uống giản dị đơn sơ thì khỏe mạnh sống lâu. Chúng ta hy vọng được khỏe mạnh sống lâu thì nhất định phải hiểu được phương pháp tu học, làm thế nào trải qua đời sống khỏe mạnh sống lâu. Cho nên danh lợi đạm bạc càng quan trọng, dưỡng tâm thanh tịnh.
Trên Kinh nói: “Chúng ta ở mọi nơi, đi đứng nằm ngồi phải thuần nhất chánh tâm”. Ở ngay trong cuộc sống thường ngày, không luận là ở lúc nào, không luận nơi nào, luôn là giữ gìn tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, đó chính là đạo tràng bất động mà trong Phật pháp thường nói, đó chính là Tịnh Độ chân thật mà trong Phật pháp nói. Tâm tịnh thì cõi nước tịnh. Tịnh Độ ở đâu vậy? Tịnh Độ chân thật chính ở ngay tâm. Hiện tại bạn ở nơi Tịnh Độ, tương lai khi xả báo thân thì nhất định vãng sanh Tịnh Độ Di Đà. Tịnh Độ này cùng Tịnh Độ kia cảm ứng.
Một người trong khi qua lại làm việc hoặc trong đời sống, quả nhiên có thể giữ được nguyên tắc trên Kinh Kim Cang nói là “bất thủ ư tướng, như như bất động”, ngoài không dính mắc, trong không động tâm, thì đó gọi là nhất tướng Tam Muội. Ở ngay trong mọi cảnh giới phải bình đẳng, bạn ở trong thuận cảnh không khởi ưa thích, tâm là bình lặng; trong nghịch cảnh không khởi sân hận. Trong cảnh giới thuận nghịch, bạn có thể giữ được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, đó chính là “nhất tướng Tam Muội, nhất hành Tam Muội”. Có thể tu hai loại Tam Muội này, Phật ở trên kinh nói: “Thí dụ đất này có trồng, đất này đã có gieo hạt giống, thổ nhưỡng phì nhiêu, hạt giống này nhất định bám rễ, nẩy mầm, tươi tốt kết trái”. Thí dụ này là thí dụ cho người tu hành chúng ta. Bạn phải có thể tuân thủ nguyên lý nguyên tắc trong Kinh giáo của Phật đã giảng cho bạn, đem những đạo lý này, những phương pháp này ứng dụng ở trong đời sống. Mọi người nhất định phải nên biết, đạo lý trong kinh Phật nói là đạo lý làm người, đạo lý làm việc; phương pháp đã nói là phương pháp sinh hoạt, phương pháp làm việc, phương pháp qua lại đối nhân xử thế tiếp vật. Phật nói ra là những đạo lý này, đều có liên quan mật thiết với đời sống hiện thực của chúng ta, không hề tách rời khỏi. Cho nên bạn học rồi thì bạn lập tức có thể dùng ngay trong cuộc sống, quyết định không phải là học xong thì không thể dùng. Nếu như đã học mà không thể dùng thì chúng ta học để làm gì, Phật làm sao có thể được gọi là trí tuệ viên mãn? Thế gian có không ít người có trí tuệ, người có học vấn đã giảng cho chúng ta nghe rất nhiều đại đạo lý, thế nhưng những đại đạo lý này không có liên quan gì với đời sống, không dùng được, cho nên gọi là “huyền đàm thuyết diệu”. Vào thời đại Ngụy Tấn, Nam Bắc triều, “Thanh Đàm” nói được rất huyền diệu, nói được rất cao, nhưng không hợp với đời sống, không dùng được thứ nào, đó không phải là trí tuệ cứu cánh viên mãn. Trí tuệ cứu cánh viên mãn nhất định là dạy cho quần chúng rộng lớn, tất cả chúng sanh sau khi học rồi hiện tại liền được lợi ích, hiện tại liền có thể dùng được ngay, đó mới gọi là trí tuệ cứu cánh viên mãn. Phật là trí tuệ cứu cánh viên mãn. Những gì Phật giảng ở trong tất cả Kinh nếu tách rời, đều không liên quan với đời sống, ăn uống, đi đứng của chúng ta, thì những Kinh điển này của Phật không thể được gọi là trí tuệ cao độ. Chỗ này chúng ta phải nhận biết cho tường tận bản chất của Phật pháp, sau đó biết được Phật pháp có quan hệ gì với chúng ta. Chúng ta có quan hệ gì với Phật pháp? Chúng ta vì sao phải học Phật? Ngày trước Đại Sư Âu Dương nói rất hay: “Phật pháp là thứ mà đời nay cần đến”. “Cần đến” chính là không thể thiếu được. Ai không thể thiếu được? Mỗi một người đều không thể thiếu, không luận nam nữ, già trẻ, bạn trải qua đời sống như thế nào, bạn từ nơi một công việc nghề nghiệp nào, thảy đều cần đến, không có ai là ngoại lệ, thậm chí người học các tôn giáo khác cũng cần đến, cũng không thể rời khỏi. Nếu như bạn rời khỏi rồi thì bạn sẽ không học được thứ gì. Nếu như bạn học được rồi thì đó là trí tuệ chân thật cứu cánh viên mãn. Chỉ có trí tuệ chân thật cứu cánh viên mãn mới có thể mang đến cho bạn một đời hạnh phúc chân thật, mang đến cho bạn ngay trong đời này chân thật mỹ mãn. Món quà tốt đến như vậy, nếu chúng ta không chăm chỉ học tập chẳng phải là tự cam đọa lạc, tự cam chịu khổ hay sao? Vậy đâu phải là người thông minh! Làm gì là người có trí tuệ?
Chúng ta học Phật, ngày nay chúng ta hiểu rõ, thấu suốt rồi, lợi ích chân thật của Phật pháp chúng ta có được rồi, hôm nay học hôm nay liền dùng được. Chúng ta có cái tốt thù thắng đến như vậy thì cũng nên đem cái tốt này giới thiệu cho bạn bè thân thích của chúng ta, giới thiệu cho những người mà chúng ta thường hay tiếp xúc. Chúng ta bằng lòng cùng hưởng với họ, đem công đức lợi ích thù thắng của Phật pháp giới thiệu cho họ. Đó chính là độ chúng sanh, chính là lợi ích chúng sanh. Mọi người đều có thể y theo Phật pháp mà tu học thì xã hội chúng ta liền tốt, chúng ta liền có thể trải qua ngày tháng thái bình, liền có thể trải qua đời sống phồn vinh hưng vượng. Cho nên lợi tha sau cùng vẫn là tự lợi. Ta giúp đỡ mọi người, mọi người giúp đỡ ta, cùng nhau tạo thành một xã hội mỹ mãn, an định, phồn vinh, giàu có, thì mọi người chúng ta cùng nhau hưởng thụ. Đó là lợi ích hiện tiền của Phật pháp. Nếu như lợi ích hiện tiền chúng ta không hưởng thụ được, mà nói đợi đến tương lai sẽ càng thù thắng hơn thì ai có thể tin tưởng được? Hiện tiền liền được lợi ích, lợi ích thù thắng về sau chúng ta mới có thể tin được, mới có thể tiếp nhận.
Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không
Trích trong: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giảng Ký tập 17-18-19-20