Cách trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh mà linh nghiệm
Cách trì chú Đại Bi vào nước làm như thế nào? Việc trì chú Đại Bi vào chai nước, ly nước để chữa bệnh rất đơn giản, không phức tạp…
1. Trì chú vào nước để làm gì?
Chữa bệnh bằng nước đã được chú nguyện là một việc làm thông thường ở Tây Tạng, nơi các Lama và các hành giả thiền định thường chữa bệnh bằng cách chú nguyện vào nước và cho bệnh nhân uống. Pháp thực hành này gồm có việc thiền định và trì tụng mật chú Quán Thế Âm, Phật Dược Sư, Tara, hay các vị Bổn tôn khác. Sau đó, nước đã chú nguyện sẽ được uống nhiều lần trong ngày.
Việc này đặc biệt rất tốt cho trẻ con và người già, là những người thường không thể chú tâm hay thấy khó khăn trong việc quán tưởng và trì tụng mật chú. Đây có lẽ cũng là cách duy nhất để chữa bệnh cho những người mà bạn không thể gặp gỡ giao tiếp. Bạn có thể chú nguyện vào nước và sử dụng để chữa bệnh cho chính mình hay người khác.
Người ta thường trì tụng mật chú để tạo ra năng lực trong một chất liệu và rồi dùng chất ấy để chữa bệnh, đặc biệt là những bệnh về xương. Cũng có thể thiền định và trì tụng mật chú rồi chú nguyện vào bột hay kem, rồi thoa ngoài da.
Các mật chú không chỉ có năng lực trong việc chữa bệnh cơ thể mà còn tịnh hóa tâm, và đây là điểm chính. Mật chú có năng lực tịnh hóa nhân của bệnh và tất cả các vấn đề khác nữa: các hành vi và suy nghĩ bất thiện, cũng như các chủng tử đã để lại trong tâm. Thật ra, việc uống nước đã chú nguyện chính là để chữa lành những căn bệnh nội tâm lâu đời này.
2. Cách trì chú vào nước
Để chú nguyện vào nước, bạn hãy đặt một lọ chứa nước lên bàn thờ hay trước mặt bạn. Hãy quán tưởng rằng, nhờ vào lòng bi mẫn của đấng giác ngộ mà bạn đã quán tưởng, những dòng sữa cam lồ từ tim hay bàn tay vị ấy chảy vào trong nước. Hãy trì tụng mật chú của vị bổn tôn đó càng nhiều càng tốt, rồi thổi vào nước.
Khi bạn trì tụng càng nhiều mật chú, lời nói của bạn càng có nhiều năng lực, và hơi thở của bạn càng có nhiều sức chú nguyện nhiều hơn.
Hơi thở của bạn sẽ có năng lực chữa bệnh nhờ vào năng lực của mật chú; năng lực chữa bệnh đến từ năng lực của tâm thiêng liêng của Đức Phật yêu thương bi mẫn đối với tất cả chúng sinh hữu tình. Mặc dù Chư Phật có vô lượng phẩm tính, nhưng các ngài dẫn dắt chúng ta chủ yếu là vì lòng bi mẫn.
Mỗi một nguyên tử nước đã được chú nguyện đều có năng lực chữa bệnh không thể nghĩ bàn, và không chỉ chữa lành bệnh tật cơ thể, vốn chỉ là một vấn đề, mà còn giải quyết được nhiều vấn đề bất ổn khác.
3. Nội dung Thần chú Đại Bi
Đây là bản chú đại bi dịch từ âm tiếng Phạn ra âm Hán ra âm Việt được sử dụng chính thức trong các các Kinh điển và nghi thức tụng niệm phổ thông tại Việt Nam và hải ngoại.
Nam-mô Đại-bi Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).
Thiên thủ thiên nhãn, vô ngại Đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.
Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra.
Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha.
Tất đà dạ, ta bà ha.
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha.
Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì, ta bà ha.
Ma ra na ra, ta bà ha.
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha.
Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha.
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha.
Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha.
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha.
Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. (3 lần khi trì biến cuối cùng)
4. Cách trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh
Cách trì chú Đại Bi vào ly nước, chai nước làm như thế nào? Việc trì chú Đại Bi hay các chú khác… vào nước rất đơn giản và không phức tạp như nhiều người vẫn nghĩ.
Để có thể trì chú vào nước, quý vị đặt một chai nước hoặc một ly nước lên bàn thờ hoặc trước mặt. Trong quá trình trì chú, quý vị hãy quán tưởng rằng lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát như dòng sữa cam lồ từ tim chảy vào cốc nước ấy. Hãy trì tụng Thần chú Đại Bi càng nhiều càng tốt, rồi thổi vào nước ấy. Quý vị trì tụng nhiều bao nhiêu, ly nước lại càng có năng lực kỳ diệu bấy nhiêu.
Khi bạn trì tụng chú càng nhiều, lời nói của bạn càng có nhiều năng lực, và hơi thở của bạn càng có nhiều sức chú nguyện nhiều hơn.
Hơi thở của bạn sẽ có năng lực chữa bệnh nhờ vào năng lực của mật chú; năng lực chữa bệnh đến từ năng lực của tâm thiêng liêng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát yêu thương bi mẫn đối với tất cả chúng sinh hữu tình.
Sau đó, quý vị có thể uống hoặc đem cho người khác uống nước ấy. Ly nước hay chai nước đã được trì chú đó sẽ có tác dụng nâng cao tần số rung động, giúp người uống chữa bệnh, nhanh chóng đạt được ước nguyện.
Vào cuối thời khóa trì tụng mật chú, bạn hãy đọc lời khẩn cầu tha thiết lên Đức Quán Thế Âm:
Con xin đảnh lễ Đức Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát, nương nhờ vào lòng bi mẫn tột cùng và trí thấu hiểu trọn vẹn của Ngài, cầu mong sao bất kỳ ai uống nước này đều sẽ chữa được bệnh cũng như sự đau khổ của họ, cầu mong sao tâm của họ được tịnh hóa.
Con khẩn xin Đức Quán Thế Âm tan nhập vào nước đã chú nguyện này, và cầu mong sao… (đọc tên người bệnh) chỉ cần uống nước này vào thì tâm vị kỷ sẽ được chuyển hóa thành Bồ-đề tâm thanh tịnh, cội nguồn của tất cả hạnh phúc và thành tựu cho tất cả chúng sinh hữu tình. Cầu mong sao họ tự quên mình để phụng sự người khác với tâm từ bi này.
Cầu mong sao lòng sân hận của họ được chuyển hóa thành đức nhẫn nhục. Cầu mong sao sự bất mãn chuyển hóa thành sự mãn nguyện. Cầu mong sao vô minh được chuyển hóa thành trí tuệ nhận biết nhân của hạnh phúc và nhân của khổ đau, và trí tuệ nhận biết bản chất tuyệt đối, tức tánh Không, của cái “tôi” và của mọi sự đang hiện hữu. Cầu mong sao tâm của họ được chuyển hóa thành tâm giác ngộ viên mãn.
Cầu mong sao thân, khẩu, ý của họ có năng lực mãnh liệt để dẫn dắt, làm lợi lạc, làm thỏa mãn mọi ước muốn của tất cả chúng sinh hữu tình.
Đức Quán Thế Âm cực kỳ hoan hỷ nghe những lời khẩn cầu chân thành của bạn, Ngài tan vào ánh sáng trắng và tan nhập vào nước. Bạn hãy tưởng tượng nước tăng thêm nhiều lên và có năng lực cực kỳ mãnh liệt, mãnh liệt đến nỗi bất cứ ai uống vào đều sẽ tịnh hóa được mọi bệnh tật và nhân của bệnh tật, mọi nghiệp chướng tội lỗi. Hãy nghĩ rằng nước được chú nguyện đó lúc này đã có năng lực để hiện thực hóa những điều mà bạn cầu xin Đức Quán Thế Âm.
5. Trì Chú Đại Bi khỏi bệnh kinh phong
Sự linh nghiệm của thần chú Đại bi đã được nhiều người chứng thực và cũng được chia sẻ. Câu chuyện mà tôi kể sau đây là do nghệ sĩ Diệu Hiền kể trên YouTube trong chương trình “Giữ ngọc gìn vàng với Hồng Loan”.
Nghệ sĩ Diệu Hiền kể rằng, cô có một người cháu gái bị bịnh kinh phong từ nhỏ, hiện cũng đang ở chung với cô. Người cháu gái ấy tính tình rất cộc cằn, ai rớ tới là chửi “tàn gia tru lục”, không ai dám làm gì cô ấy hết. Một hôm Diệu Hiền mới bảo người cháu ấy rằng: “Cô đi chùa thấy người ta đọc kinh cũng vui lắm. Nếu con chịu học thuộc thì cô cho tiền uống cà-phê”. Người cháu gái có cái tật ghiền cà-phê nên nghe vậy đồng ý liền. Cứ một bài chú ngắn thì cô Diệu Hiền trả cho hai chục ngàn đồng, bài dài hơn thì ba chục, dài hơn nữa thì bốn chục. Một thời gian sau, cô Diệu Hiền bảo người cháu ấy học chú Đại bi, nói rằng nếu thuộc được thì trả cho một trăm ngàn đồng.
Thế nhưng lúc người cháu ấy vừa cầm quyển kinh lên đọc được vài câu thì cơn động kinh liền đến, giựt cô té từ trên ghế xuống đất. Khi cơn động kinh qua, người cháu ấy liền tức giận, cầm quyển kinh ném vào mặt cô Diệu Hiền mà mắng rằng: “Hồi đó chưa đi chùa thì hổng có nói láo. Bây giờ đi chùa bày đặt bắt chước ai nói láo rồi về gạt gẫm con cháu nữa là sao? Người ta lúc trước bị giựt cũng ít ít thôi. Bảo là đọc cái này sẽ hết bị giựt. Vậy mà mới đọc có mấy câu mà giựt một cái muốn chết luôn hà. Dẹp, từ rày sắp tới đừng có nói với tui ba cái vụ kinh này nữa nhe. Dẹp nhe! Tui yêu cầu đừng nói với tui vụ này nữa à”.
Thế nhưng chiều hôm đó, sau giấc ngủ trưa, người cháu gái ấy đến bên cô Diệu Hiền hỏi rằng: “Bây giờ tui nói cái này nhưng yêu cầu đừng có nói dối, nói thiệt tui nghe đi. Là cái người mà đàn ông không phải đàn ông, đàn bà không phải đàn bà, mà tóc dài đó là ai vậy?”. Cô Diệu Hiền nghe vậy mới hỏi người cháu đã gặp người đó ở đâu. Người cháu nói là cô ngủ thì thấy người đó đến và gõ gõ vào đầu cô ta. Cô Diệu Hiền mới giải thích rằng đó là Đại sĩ Quán Thế Âm đến để kêu con cố gắng học kinh đó. Người cháu nghe vậy không trả lời nhưng âm thầm học thuộc chú Đại bi và trì tụng mỗi ngày.
Thế là điều kỳ diệu đã xảy ra. Trước đây người cháu bị giựt một ngày đến sáu lần. Từ khi trì chú Đại bi thì giảm xuống còn năm lần một ngày. Từ đó về sau, cứ sau một tuần là giảm xuống một lần cho đến chỉ còn một lần một ngày. Rồi một tháng mới giựt một lần, rồi ba tháng mới giựt một lần, và cuối cùng thì hoàn toàn không còn bị giựt nữa.
Một hôm người cháu gái ấy đến bên cô Diệu Hiền, ôm chân cô nói: “Cô Hiền, con xin lỗi cô. Kể từ nay trở đi để con tự động học kinh. Cô Hiền khỏi mướn con nữa. Con xin lỗi cô Hiền, con không dám nói hỗn với cô nữa, cô đừng giận con nhe!”. Và cũng từ đó người cháu đổi tính hoàn toàn, không còn cộc cằn nữa mà trở nên hiền khô, ngoài ra còn chăm chỉ làm việc nhà như lau nhà, rửa chén một cách vui vẻ. Đặc biệt hơn nữa là cô bắt đầu ăn chay trường và đi chùa. Cô đến chùa gần đó tụng kinh mỗi chiều. Còn khi ở nhà thì cô đi kinh hành và niệm Phật. Cô còn thuộc cả năm đệ chú Lăng nghiêm nữa. Chú Đại bi thật là vi diệu! – “Hữu Huệ!”
Chúc quý vị luôn bình an!
Nguồn: Tâm Hướng Phật!