Công phu tu hành như thế nào mới có lực?
Cái gì gọi là công phu tu hành có lực? Hoàn cảnh đời sống của chúng ta có thể chuyển đổi lại, đây mới là tâm mong cầu của mỗi chúng ta.
Cái gì gọi là công phu tu hành có lực? Cũng chính là nói hoàn cảnh đời sống của chúng ta có thể thay đổi, đó gọi là có lực. Nếu không mà nói, câu nói công phu có lực này rất trừu tượng. Cái gì gọi là công phu có lực? Hoàn cảnh đời sống của chúng ta có thể chuyển đổi lại, đây mới là tâm mong cầu của mỗi chúng ta.
Trí tuệ viên mãn nhất định phải dựa vào lời nói hành vi hiển thị ra. Nếu không thì trí tuệ có thể nhìn ra từ đâu? Từ hành vi đời sống của chúng ta, từ chỗ bạn đối nhân xử thế tiếp vật để biết bạn có trí tuệ hay không và trí tuệ của bạn đạt đến một trình độ như thế nào. Cho nên, thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày chính là tam học giới định tuệ.
“Giới” là gì? Là như pháp. Người thế gian chúng ta gọi là hợp tình, hợp lý, hợp pháp, trong nhà Phật chúng ta gọi là giới học. Nhắc đến giới học, chúng ta không nên nghĩ đến nghĩa quá hẹp của năm giới, mười giới, phạm vi này quá nhỏ. Hợp tình, hợp lý, hợp pháp, đó là giới học.
Chúng ta nghĩ tưởng, không nên nghĩ người khác mà nên nghĩ chính mình. Người chân thật tu hành, mỗi giờ mỗi lúc quan tâm chính mình, vậy thì bạn đúng. Cũng giống như đại sư Lục Tổ Huệ Năng bên Thiền tông đã nói: “Nếu là người chân chính tu hành thì không thấy lỗi thế gian”. Quan tâm chính mình còn không kịp, làm gì có thời gian để thấy lỗi lầm của người khác?
Chính mình từ vô thỉ kiếp đến nay, tập khí phiền não thường hay khởi hiện hành, cho nên tất cả tạo tác ngay trong một đời này thật đúng như Bồ Tát Địa Tạng trong Bổn Nguyện kinh đã nói là: “Chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội”.
Nếu như chúng ta thường hay có thể phản tỉnh, có thể kiểm điểm, biết được khởi tâm động niệm chính mình đều là tội nghiệp, lời nói việc làm cũng đều là đang tạo nghiệp, bạn có thể phản tỉnh, có thể quán sát, nhà Phật gọi là giác ngộ, bạn khai ngộ rồi.
“Ngộ hậu khởi tu”, sau khi ngộ rồi đem những lỗi lầm của mình tu sửa lại, đó gọi là tu hành. Cho nên mọi người nhất định phải tường tận, tu hành không phải mỗi ngày đánh chuông gõ mõ đọc kinh, mà là đem tất cả lỗi lầm từ trong nội tâm của chúng ta sửa đổi lại, đó mới gọi là tu hành.
Các vị đều rất rõ ràng, thế gian này tai nạn trùng trùng, trên thế giới có rất nhiều lời tiên đoán trong và ngoài nước. Có rất nhiều đồng tu đều đã từng xem qua, thấy qua nhưng cho rằng chưa chắc là thật, đều có tâm trạng hoài nghi để nhìn nó, không chịu tin tưởng, không chịu tiếp nhận, vậy thì không còn cách nào.
Nếu như là người thông hiểu, người đầu óc tường tận, bình lặng, đến xem qua những truyền thuyết này, lại xem qua tình hình xã hội hiện đại, xem thấy thông thường mọi người khởi tâm động niệm, họ nghĩ tưởng cái gì, nhớ cái gì, nói cái gì, làm những việc gì; sau đó đem đối chiếu với tiên đoán của người xưa thì sẽ lạnh cả xương sống.
Chúng ta có thể ý thức đến đại từ đại bi của chư Phật Bồ Tát, lời nhắc nhở sau cùng, chúng ta có cách nào cứu vãn hay không? Có! Quay đầu là bờ, chỉ cần bạn chịu quay đầu, từ tham sân si quay lại nương vào giới định huệ thì được rồi.
Phật pháp bắt đầu học từ đâu vậy? Bắt đầu học từ trì giới. Trì giới gì vậy? Hiện tại rất khó, thời đại này đồng tu chúng ta phát tâm học Phật, nói đến thành tựu thì không bằng người xưa. Tại vì sao vậy? Người xưa làm đúng pháp, người xưa rõ lý. Ngày nay chúng ta tại vì sao không như pháp? Không hiểu đạo lý. Tại vì sao không hiểu đạo lý? Không có người nói, không có người dạy bạn thì bạn làm sao biết được?
Vào thời xưa người dạy bảo bạn nhiều, cha mẹ bạn biết dạy bạn, lão sư của bạn biết dạy bạn, nếu bạn muốn học Phật thì sư phụ xuất gia liền dạy bạn, người dạy rất nhiều. Hiện tại không có người dạy. Phát tâm học Phật, bạn cũng quy y cũng thọ giới, thậm chí cho đến cũng xuất gia, sư phụ dạy bạn cái gì? Dạy bạn bái sám, dạy bạn hóa duyên, tên tuổi tốt đẹp, chỉ là tu phước. Nhưng rốt cuộc là phước chân thật hay là phước giả? Thời đại này của chúng ta kém xa so với thời xưa, nguyên nhân chính ngay chỗ này.
Chúng ta ngay trong lúc giảng giải thường hay nhắc nhở các đồng tu, học Phật, “Phật” là ai? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ra như vậy chính là tấm gương chúng ta học tập. Trên kinh nói Thích Ca Mâu Ni Phật là “phước huệ nhị túc tôn”.
Chúng ta đọc thấy được trên kinh, so sánh phước báo có vô số so sánh, Thế Tôn dùng phương pháp này để chúng ta thể hội. Ngài nói một người ăn xin, người ăn xin ở thế gian bần tiện đến cùng tột, người ăn xin cùng đứng chung với một Hoàng Đế, các vị thấy con người nào thì phước báo lớn?
Vừa nhìn thì liền biết được, người ăn xin thì làm sao sánh được phước báo của vị Hoàng Đế kia. Loại phước báo đó, Ngài nói nếu như là Đế Vương của nhân gian cùng đứng chung với vua trời Đao Lợi thì Đế Vương nhân gian chúng ta cũng sẽ giống như người ăn mày vậy, hiển thị phước báo của vua trời Đao Lợi rất lớn. Cứ từng tầng từng tầng mà so sánh, so đến vua trời Đại Phạm Thiên vương cao nhất, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, đây là phước báo lớn nhất trong ba cõi của chúng ta.
Phật nói cho dù vua trời Ma Hê Thủ La so với Bồ Tát vãng sanh Tịnh Độ hạ hạ phẩm thì vua trời Ma Hê Thủ La cũng giống như người ăn mày vậy. Như vậy các vị mới biết được, phước báo của người vãng sanh Tây phương to lớn không thể nghĩ bàn.
Trên kinh này nói được rất rõ ràng, người hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, phước báo giống như Phật A Di Đà. Đây là chỗ khó tin của kinh này, “pháp thật khó tin”. Tại vì sao có được phước báo lớn đến như vậy?
Oai thần gia trì của bổn nguyện A Di Đà Phật, phước báo không phải do bạn tu mà là do hưởng phước báo của Phật A Di Đà, cho nên đến thế giới Tây Phương Cực Lạc dung mạo của chúng ta giống y như Phật A Di Đà, thân thể giống y như Phật A Di Đà, phước báo, trí tuệ, thần thông, đạo lực đều giống y như Phật A Di Đà. Do đây có thể biết, tu hành đúng pháp quan trọng hơn bất cứ thứ gì.
“Pháp” là gì vậy? Nếu như dùng lời hiện tại dễ dàng hiểu rõ mà nói, chính là pháp tắc tự nhiên, trong kinh Phật không nói tự nhiên, mà nói “pháp nhĩ như thị”. Trong bổn kinh đã nói ra tám chữ tự nhiên, ý nghĩa rất sâu rất rộng, cái tự nhiên này chính là tương ưng với tánh đức, đó là tự nhiên.
Ngày nay tư tưởng hành vi của chúng ta trái ngược với tánh đức, trái với tánh đức thì phá hoại tự nhiên, phá hoại tánh đức. Chư Phật Bồ Tát ở trong sáu đường, ở trong mười pháp giới là tùy loại hiện thân, tùy cơ nói pháp, các Ngài là tùy thuận pháp tánh, cho nên các Ngài được đại tự tại.
Ngày nay chúng ta khởi tâm động niệm trái ngược với pháp tánh. Nếu như bạn muốn hỏi pháp tánh rốt cuộc là cái gì? Tôi cũng không thể nói ra được, thế nhưng tôi có thể nói với bạn, ở trên cây cột này của chúng ta viết lên mười chữ mà trên tựa đề của kinh Vô Lượng Thọ đã nói rất rõ ràng: “Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”, đây chính là tánh đức. Bạn có thể khởi tâm động niệm đều tùy thuận mười chữ này, không rời khỏi mười chữ này, vậy thì bạn chân thật đang học Phật, bạn chân thật đang trì giới. Nếu như khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta hoàn toàn trái ngược với mười chữ này, thì là bạn đang tạo nghiệp.
Một người tạo nghiệp, bạn tạo nghiệp thiện thì tương lai bạn được quả thiện, trong sáu đường bạn được quả báo của ba đường thiện; nếu bạn tạo ác nghiệp thì nhất định bạn đọa ba đường ác. Những đạo lý này ở trong kinh luận Phật nói quá nhiều, không luận là kinh luận đại tiểu thừa, gần như Thích Ca Mâu Ni Phật mỗi lần giảng kinh đều nhắc đến, đó là từ bi đến tột đỉnh. Không chỉ nhắc đến, Thế Tôn Ngài còn làm ra tấm gương để cho chúng ta xem.
Vừa rồi chúng ta đã nói qua, Phật trí tuệ phước báo đạt đến cùng tột, có người nào có thể so sánh được với Ngài? Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện ra kiểu dáng này là gì? Dưới gốc cây ngủ một đêm, nửa ngày ăn một bữa, ngày ngày ra bên ngoài khất thực, Ngài thị hiện ra đời sống như vậy. Tại vì sao Ngài không thị hiện đại phú đại quý mà thị hiện thành một người ăn xin? Các vị có thể hiểu được ý này hay không? Từ bi đến cùng tột.
Nếu như thị hiện là trưởng giả đại phú, là quốc vương, Ngài có thể thị hiện ra, nhưng trong mắt của tất cả chúng sanh, nhất là chúng sanh nghèo khổ, xem thấy Phật Đà trên cao vời vợi, cao không thể với tới, muốn gần gũi mà không dám gần. Thế Tôn thị hiện một người khất thực, người bần tiện nhất nhìn thấy Thế Tôn thì cảm thấy gần giống như họ vậy, ta xin ăn, ông ấy cũng xin ăn, người bần tiện nhất cũng có thể thân thiết tiếp cận với Ngài. Đây là từ bi đến tột đỉnh.
Lại nói với người, tướng phước đức trí tuệ viên mãn thị hiện ra thì ra là loại tướng này. Ở trong loại tướng này để bạn thể hội đến “phước huệ nhị túc tôn”, bạn dần dần mà thể hội. Không phải ở loại thân phận quốc vương đại thần đại phú trưởng giả bảo bạn đi thể hội “phước huệ nhị túc tôn”, mà để cho bạn trong việc khất thực ăn xin mà thể hội, bạn nói xem, cái ý này bao sâu. Ngài cụ thể hiển thị ra chân thật nhìn thấu buông bỏ, cho nên sau cùng tổng kết gọi là Thế Tôn.
Thế là thế gian, thế gian là nói hữu tình thế gian, trí chánh giác thế gian, cũng chính là nói mười pháp giới. Mười pháp giới không có một người nào không tôn kính đối với Phật. Trong mười pháp giới, người đáng được tôn kính nhất được gọi là Thế Tôn. Bình thường chúng ta đọc kinh xem thấy những danh tướng này, thậm chí xem thấy truyền ký của Thích Ca Mâu Ni Phật nhưng không thể hội được cái ý này, bạn không thể nhìn ra, tại vì sao vậy? Quá hời hợt, quá sơ ý.
Chúng ta học Phật đích thực là không có chỗ nương tựa, bắt tay vào từ chỗ nào cũng không biết. Phật đã thị hiện cho chúng ta xem phải bắt tay vào từ chỗ nào? Bắt tay vào từ không tham, không sân, không si, bắt đầu từ tri túc thường lạc. Những tổ sư đại đức này của Trung Quốc thời xưa tường tận, cho nên ở nơi cửa của đạo tràng, nơi cửa chính là điện Thiên Vương, ở ngay chính giữa thờ cúng hòa thượng Bố Đại.
Ý nghĩa biểu pháp của Bồ Tát Di Lặc rất sâu. Đời sống của hòa thượng Bố Đại không hề khác nhau với Thích Ca Mâu Ni Phật, không những Ngài không có đạo tràng, mà Ngài cũng không có nơi ở, ngay đến danh tánh cũng không có, trong lịch sử danh tánh cũng không có, pháp danh cũng không có, mỗi ngày vác một cái túi vải to đi dạo khắp nơi, cho nên mọi người gọi Ngài là Bố Đại Hòa Thượng, pháp danh không biết, họ gì tên gì không hề biết, nhà ở nơi đâu cũng không biết.
Có người thỉnh giáo với Ngài là pháp sư tu hành phải bắt tay vào từ chỗ nào? Ngài liền để cái túi vải xuống đất, duỗi hai tay ra, không nói một câu nào. Cái ý này nói gì vậy? Là buông bỏ, người này thể hội được rồi: “Oh! Buông bỏ”. Sau khi buông bỏ rồi thì làm sao? Ngài vác cái túi vải lên vai liền bỏ đi. Đây lại biểu thị cái gì? Sau khi buông bỏ rồi phải đề khởi, buông bỏ được mà không lấy lên được thì không tác dụng. Sau khi buông bỏ mà không chịu nhấc lên là Tiểu Thừa, sau khi buông bỏ lại có thể nhấc lên là Bồ Tát. Nhấc lên là gì? Cứu độ chúng sanh, vì chúng sanh phục vụ, buông bỏ không vì chính mình, hoàn toàn vì chúng sanh, đó là hạnh Bồ Tát, như vậy mới có thể tương ưng với pháp.
Cho nên người chân thật tu hành, không chỉ là xuất gia mà tại gia cũng không ngoại lệ, đời sống nhất định phải thành thật, phải tiết kiệm, có phước báo thì cùng hưởng với tất cả chúng sanh thì cái phước báo đó là phước báo chân thật. Phước báo của Thích Ca Mâu Ni Phật là vô lượng vô biên, cùng hưởng với tất cả chúng sanh. Ngài là mô phạm tốt, là tấm gương tốt của chúng ta.
Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không
Trích trong: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giảng Ký tập 61