Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 2: Đức Tuân Phổ Hiền tập 2
Thiện Tư Duy, chúng ta chú trọng ở chữ Thiện. Ý nghĩa của chữ Thiện quá sâu, quá rộng. Nói đến ý nghĩa cao thâm, chúng ta rất khó hiểu được…
Kinh văn: Hựu Hiền Hộ đẳng, thập lục chánh sĩ, sở vị Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hành Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, nhi vi thượng thủ.
Dịch: Lại có mười sáu vị Bồ Tát tại gia: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, là những bậc thượng thủ.
Vị thứ hai, Thiện Tư Duy Bồ Tát!
“Thiện Tư Duy”, chúng ta chú trọng ở chữ “Thiện”. Ý nghĩa của chữ “Thiện” quá sâu, quá rộng. Nói đến ý nghĩa cao thâm, chúng ta rất khó hiểu được, cũng không cách gì làm được, do đó chúng ta cần phải đem tiêu chuẩn này hạ thấp xuống, hạ xuống có thể thực tiễn được ngay trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta làm thế nào để học? Trên hội kinh Vô Lượng Thọ này, chúng ta chú trọng ở Giải – Hành – Chứng, làm thế nào thực tiễn ngay trong cuộc sống của chúng ta? Làm thế nào thực tiễn ngay trong công việc, đối nhân, xử thế, tiếp vật của chúng ta? Chúng ta học tập mà làm, thực tiễn được thì chúng ta mới làm được.
Thứ nhất, “Thiện Tư Duy” chính là biết ân báo ân. Việc này chúng ta có thể làm được. Thường nghĩ ân Tam Bảo, thường nghĩ ân chúng sanh, thường nghĩ ân cha mẹ, thường nghĩ ân quốc gia, trên kệ hồi hướng chúng ta tụng mỗi ngày: “Thượng báo tứ trọng ân”. Một người có thể thường nghĩ báo ân, đức hạnh của bạn càng tích càng sâu, chúng ta thường gọi là tích công bồi đức, đó là tích đức.
Tri ân báo ân, khóa mục này nói ra thật không đơn giản. Trong kinh Đại Bát Nhã vừa mở ra là Bồ Tát Nhị Địa. Bồ Tát Nhị Địa tu học tám khóa mục, tri ân báo ân là một trong những khóa mục đó. Việc này nói rõ tri ân là đáng quý. Trí tuệ của Bồ Tát Nhị Địa thì tương đối cao, cho nên họ mới chân thật tri ân. Phàm phu không biết tri ân, không biết ân dưỡng dục của cha mẹ, không biết ân giáo hóa của thầy giáo, không biết ân hộ trì của quốc gia. Việc này chúng ta phải nên hiểu. Bạn thấy hiện tại người không có quốc tịch thật đáng thương, làm kẻ lưu lạc trên thế giới. Quốc gia bảo hộ bạn, quốc gia lớn mạnh, bạn cầm lấy hộ chiếu đi đến bất cứ quốc gia nào, mọi người đều tôn kính đối với bạn, nếu bạn không có quốc tịch thì ai cũng xem thường bạn. Bạn phải từ ngay chỗ này mà thể hội được, quốc gia có ân đức bảo hộ chúng ta. Tất cả chúng sanh có ân đức hỗ trợ chúng ta. Quần áo mà chúng ta đang mặc đây, vải không phải chính mình dệt, bông vải không phải chính mình trồng, mỗi ngày ăn cơm gạo không phải chính mình gieo trồng, bạn liền biết được trong xã hội có bao nhiều người khổ cực cần lao cung cấp cho đời sống một ngày của ta, ta dùng cái gì để hồi báo?
Việc đầu tiên, chúng ta phải chân thật hiểu được bốn ân nặng, đặc biệt là nhớ nghĩ ân Tam Bảo, trong ân Tam Bảo chân thật đầy đủ bốn ân trọng, viên mãn tròn đầy. Ý này tôi không thể giảng tỉ mỉ, vì giảng tỉ mỉ lại phải mất một giờ nữa, dường như sau khi các vị nghe qua rồi thì sẽ dần dần tỉnh ngộ ra.
Thứ hai, nhất định phải nhớ nghĩ chúng sanh khổ. Nhớ chúng sanh khổ thì lòng đại bi của chính chúng ta mới có thể sanh khởi ra được. Bạn xem thấy những chúng sanh khổ nạn, bạn muốn giúp đỡ họ thì bạn không thể không chăm chỉ nỗ lực tu học. Nếu như không thể thành tựu đức hạnh của chính mình, không thể thành tựu học vấn của chính mình, không thể thành tựu năng lực của chính mình thì bạn làm sao đi giúp người? Cho nên hy vọng các vị đồng tu phải nhìn thấy chúng sanh khổ nạn trên toàn thế giới, vì những chúng sanh khổ nạn này, chúng ta phải vùi đầu kham khổ mà làm, phải cố gắng nỗ lực tinh tấn, hy vọng chúng ta sớm một ngày thành tựu thì những khổ nạn của họ sẽ sớm một ngày được tiêu trừ, chúng ta thành tựu trễ một ngày thì họ sẽ thêm một ngày khổ nạn. Bạn phải thường có cái tâm này. Người thường có tâm này thì người nhất định không thể giải đãi, đó chân thật gọi là tâm Bồ Tát, chân thật là đại từ đại bi.
Hiện tại thế gian này có người đã giác ngộ được khổ nạn của chúng sanh, thế nhưng họ không cách gì giải quyết. Năm trước, khi vào ở khóa thứ hai, đồng tu khóa thứ hai biết, cũng là khoảng thời gian chúng ta lên lớp, tôi xin nghỉ phép ba ngày đến Úc châu để giảng. Cục Sự Vụ Dân Tộc Thiểu Số Úc châu là cơ cấu chính phủ của họ, Cục Trưởng mời tôi đi đến đó giảng một lần, tôi nhận lời ông ấy. Ngày đầu tiên tôi đi, ngày thứ hai diễn giảng, ngày thứ ba thì quay về. Tính chất của diễn giảng này là gì vậy? Cục Trưởng này là người Úc châu gốc Do Thái. Khi tôi ở Úc châu gặp mặt ông, ông đã nói với tôi vấn đề là hiện tại Úc châu đã mở ra chính sách phóng khoáng, cũng chính là hoan nghênh người các nơi khác di dân đến Úc châu. Những người di dân đến đây cùng với người Úc châu địa phương bối cảnh văn hóa không giống nhau, phương thức đời sống không giống nhau, chủng tộc không giống nhau, tín ngưỡng tôn giáo không giống nhau, hiện tại khi vừa đến, đột nhiên cùng sống với nhau, làm thế nào cho xã hội được phồn vinh an định? Làm thế nào có thể tiêu trừ được rất nhiều thành kiến ngăn cách, có thể hợp tác lẫn nhau làm cho xã hội Úc châu được phồn vinh? Họ đã nghĩ đến vấn đề này, cho nên tổ chức một buổi luận đàm, mỗi một tháng là họ tổ chức hội nghị một lần, đến tham gia đều là lãnh đạo các tôn giáo. Hôm đó tôi đến tham gia, có tổng cộng mười bốn vị lãnh đạo tôn giáo khác nhau cùng chung một hội nghị. Hôm đó Cục Trưởng mời tôi diễn giảng vấn đề này. Tôi đều gọi mười bốn vị lãnh đạo tôn giáo này là Bồ Tát. Họ nghe rồi cảm thấy rất kỳ lạ, Mục sư của Ki-tô giáo là Mục sư Bồ Tát, Thần Phụ Bồ Tát của Thiên Chúa Giáo, A Hồng Bồ Tát của Islam giáo, Do Thái giáo tôi không biết gọi thế nào nên tôi gọi là Trưởng Lão Bồ Tát, đều là Bồ Tát. Họ nghe rồi cảm thấy rất kỳ lạ, tôi liền giải thích cho họ, ý nghĩa của Bồ Tát là người giác ngộ, là có trí tuệ, có giác ngộ, các vị có thừa nhận hay không? Bạn chính mình có trí tuệ, có giác ngộ, vậy thì đúng rồi, bạn chính là Bồ Tát, Bồ Tát thật, không phải Bồ Tát giả. Cho nên họ rất là hoan hỉ đối với tôi, không hề có chút bài xích nào đối với tôi. Chúng ta ở nơi đó đem Phật pháp giới thiệu cho họ, nói rõ Phật pháp không phải là tôn giáo, Phật pháp là học thuật, Phật pháp là giáo dục, bất cứ tôn giáo đồ nào đều phải học Phật pháp, vì sao vậy? Bạn phải học trí tuệ, bạn có trí tuệ, bạn có giác ngộ thì gọi bạn là Bồ Tát. Cho nên, Phật pháp quyết định không phải bảo bạn phản bội tôn giáo của bạn thì bạn mới đến học Phật giáo, đó là việc Phật giáo nhất định không chấp nhận, việc làm đó là trái với đạo đức của xã hội, Phật không nhận học trò này. Bạn là tín đồ tôn giáo, bạn yêu thích tôn giáo của bạn, tôn kính Thượng Đế của bạn, Phật tán thán bạn, bạn là con cái tốt của Thượng Đế, là học trò tốt của Phật. Bạn tín ngưỡng tôn giáo, có thể quy y Tam Bảo, làm học trò của Phật. Bạn với Thượng Đế là quan hệ cha con, bạn cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật là quan hệ thầy trò, làm gì có chuyện xung đột? Không hề có xung đột, mà rất là hòa hợp!
Sau khi tôi diễn giảng xong mọi người đều rất hoan hỉ, nêu ra rất nhiều vấn đề để hỏi tôi, trong đó có trưởng lão Do Thái giáo, ông thân thiện dễ gần, ông nêu ra câu hỏi với tôi: “Ở trong Thánh kinh nói nhân loại tạo ra những tội ác đến sau cùng đều có thẩm phán, thẩm phán sau cùng. Phật giáo các vị có nói thẩm phán sau cùng hay không? Thẩm phán sau cùng do ai đến chủ trì?”. Tôi nghe xong liền nói: “Không sai! Phật giáo là giáo dục, không quan tâm thẩm phán. Trường học là dạy học, khuyến thiện, ngừa lỗi. Thẩm phán là sự việc của pháp quan, là việc của Bộ Tư Pháp. Phật là Bộ Giáo Dục, không phải Bộ Tư Pháp. Ai chủ trì thẩm phán này? Là Thượng Đế”. Họ nghe rồi rất phấn khởi. Chúng ta là giáo học, khuyến thiện, ngừa lỗi, dung hợp. Tôi rất là tôn trọng họ, họ cũng rất tôn trọng tôi. Ngay trong hội nghị lúc đó họ mời tôi làm hội viên dài lâu của họ. Tôi không thường đi đến Úc châu. Họ nói, không hề gì, mỗi một tháng ông gởi cho chúng tôi một bài viết là được rồi. Mỗi một tháng tôi gởi một bài cho họ, trên thực tế tôi cũng không cần phải viết, trong “Vô Trụ Sanh Tâm” của chúng ta rất nhiều, tôi liền bảo đồng tu Úc châu là các vị dùng Anh văn phiên dịch một chương đưa cho họ mỗi tháng một lần.
Lần này, bởi vì bắt đầu khai giảng, các vị đã trễ rồi, tôi cũng trễ luôn. Thời gian tôi đến Úc châu ở hơi dài, đến 26 ngày. Tôi đi thăm viếng Đại Học Bang Đức ở bờ biển Hoàng Kim, tiếp kiến tôi là học sinh trong trường đó. Viện trưởng của Viện Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, tôi nghe người khác nói, Viện trưởng này tuổi tác không lớn, ông là nhân viên làm hành chánh, tánh tình rất nóng vội, không có lòng nhẫn nại, thế nhưng hôm đó gặp mặt tôi thì hòa ái, thân thiện, thái độ hoàn toàn khác đi, có rất nhiều người xem thấy đều cảm thấy rất kỳ lạ. Khi vừa gặp mặt tôi, ông nhận thấy đây là Phật pháp mà ông rất ưa thích, ông là người có duyên phận. Ông nêu ra vấn đề với tôi, hiện tại Úc châu, lấy trường học của họ mà nói, trường học có hơn 2.000 học sinh đến từ hơn 30 quốc gia, giống như một Liên Hiệp Quốc nhỏ vậy, thế là trong đó nảy sanh ra một vấn đề xã hội, đó là Viện Khoa Học Xã Hội, như vậy thì làm thế nào để dạy cho những người không đồng quốc gia, không đồng chủng tộc, không đồng phương thức sinh hoạt, không đồng tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng ở chung với nhau, có thể hòa thuận cùng sinh sống, có thể hợp tác lẫn nhau? Ông cũng nêu ra vấn đề này. Hiện tại Úc châu người giai cấp cao, ở trong giới học thuật, ở trong giới chính trị có rất nhiều người có quan niệm này, đó là một hiện tượng rất tốt. Ông nêu ra vấn đề này với tôi, tôi liền nói với ông, Phật pháp Đại thừa có thể giải quyết vấn đề này. Ông nghe rồi rất hoan hỉ. Tôi nói, đặc biệt là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh có lý luận viên mãn, có đầy đủ phương pháp, phía sau còn có biểu diễn. Biểu diễn đó là thật. Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham học, bạn thấy 53 vị Phật thị hiện ra các ngành các nghề, nam nữ, già trẻ, cũng thị hiện ra tín ngưỡng tôn giáo khác nhau (như Thắng Nhiệt Bà La Môn, Biến Hành Ngoại Đạo đều là tín ngưỡng tôn giáo khác nhau), bối cảnh văn hóa khác nhau, phương thức sinh hoạt khác nhau, họ làm thế nào ở trong một xã hội này cùng tồn tại, cùng phát triển, hợp tác lẫn nhau, há chẳng phải vấn đề mà hiện tại các vị đang mong cầu giải quyết đó sao? Sau khi ông ấy nghe rồi thì vô cùng vui mừng, ngay lúc đó liền nêu ra ý kiến với tôi là có thể ở trong trường học của ông thành lập một Viện Nghiên Cứu Phật Học. Việc này do ông chủ động đề xuất với tôi, nếu không thể mở được một viện nghiên cứu thì có thể ở trong trường học của ông mở khóa trình Phật học. Khi ông nêu ra ý kiến này, tôi liền hỏi ông là học trò trường học hiện tại của các vị, một học sinh ở bên đây tu học thì học phí, tạp phí, ăn ở (học trò đều ở trong ký túc xá của trường) một năm đại khái phải tốn bao nhiêu tiền? Ông nói với tôi, một năm cũng sắp gần ba mươi ngàn đô Úc. Tôi vừa nghe nói liền thốt lên: “Trường học quý tộc!”. Mọi người đều nói trường học đó là một trường học quý tộc, không có tiền thì không cách gì có thể vào đó để học, tố chất của thầy giáo rất tốt, trình độ giáo dục cũng tương đối cao. Cho nên tôi liền nghĩ, nếu như có thể đem Phật pháp kéo dậy trường học này, tương lai sẽ biến thành một môn giáo trình quan trọng nhất trong trường học này, Phật pháp chúng ta liền sẽ bước vào đại học của toàn thế giới, sẽ là giáo trình trung tâm trong đại học, người thế gian mới chân thật có phước. Phật pháp là pháp của trí tuệ, học Phật là học trí tuệ, chân thật có thể giải quyết tất cả vấn đề, có thể khiến cho tất cả chúng sanh người người hạnh phúc, nhà nhà mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội an lành, quốc gia giàu mạnh, thiên hạ thái bình. Kinh Hoa Nghiêm đích thực là có thể làm đến được, đáng tiếc không có người đề xướng. Hiện tại chúng ta có được cơ hội tốt như vậy, hy vọng pháp sư trẻ tuổi như các vị chăm chỉ nỗ lực. Sau khi các vị học xong rồi, tương lai đều là giáo thọ đại học. Không nên lo là chúng ta đều không có học vị, thậm chí chưa tốt nghiệp cao trung thì làm sao có thể làm giáo thọ đại học được. Các vị phải nên biết, tôi chỉ tốt nghiệp sơ trung, hiện tại lại có thể có người mời tôi làm Viện trưởng viện Nghiên Cứu, cho nên bạn phải có đồ thật. Chúng ta ở trong trường học giảng qua một lần, hiệu trưởng của trường học, một số lãnh đạo của trường học đó, giáo thọ của họ đều đến nghe, nghe rồi họ đều hoan hỉ, họ đều bội phục, họ đều có thể khẳng định, vậy thì bạn dạy học trò còn vấn đề gì chứ? Vấn đề là bạn phải chân thật y theo Phật pháp tu học, đoạn phiền não, khai trí tuệ. Chỉ có trí tuệ thì bạn mới có thể làm cho người tâm phục khẩu phục, không cần phải có văn bằng, vì văn bằng là giả, không có tác dụng gì. Đối chính mình bạn phải có tín tâm, phải chăm chỉ nỗ lực, nhất định phải đoạn phiền não, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần của thế gian này phải xả được sạch trơn, thường nghĩ đến chúng sanh khổ, thường nghĩ chính mình nghiệp chướng sâu nặng, phải đoạn phiền não, tiêu nghiệp chướng, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn thì bạn chính là Thiện Tư Duy Bồ Tát.
Hôm nay thời gian đã hết. Ngày mai chúng ta tiếp tục giới thiệu Bồ Tát kế tiếp. Tối ngày mai chúng ta gặp lại. A Di Đà Phật!
Kinh văn: “Hựu Hiền Hộ đẳng, thập lục Chánh Sĩ sở vị, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát”.
Lần trước đã giảng đến chỗ này. Ý nghĩa của Kinh văn rất sâu, chúng ta phải thể hội một cách thật tỉ mỉ thì mới có thể thu được lợi ích công đức phật pháp thù thắng. Lần trước, tôi cũng đã từng gợi ý qua với quí vị, lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bản Kinh, lúc đầu Ngài đem toàn bộ Kinh phân thành 37 phẩm, sau này khi đính chính lại mới phân thành 48 phẩm (chúng ta hiện nay nhìn thấy bản này). Hai phẩm trước, chúng ta phát hiện ra rõ ràng mười sáu vị Bồ Tát tại gia này cần phải phân vào phẩm thứ nhất mới đúng, vì đây là chúng thành tựu. Ở trong chúng thành tựu, có chúng Thanh Văn, có chúng Bồ Tát; ở trong chúng Bồ Tát, có chúng Bồ Tát xuất gia, có chúng Bồ Tát tại gia, phải phân theo cách này. Tôi đã từng đặt ra nghi vấn là vì sao Ngài phải phân vào phẩm Hiền Hộ Bồ Tát này vậy? Đây không phải đoạn nhỏ, mà ở đây lại phân thành một phẩm riêng, tôi đã từng nêu ra là ắt có đạo lý. Đạo lý này các bạn hiểu được không? Có được mấy người có thể nhìn ra bí quyết này? Quả là có đạo lý, vì mười sáu vị tôn giả này là huyết mạch của toàn Kinh. Chúng ta tu học có nắm chắc được cương lĩnh, nắm chắc được nguyên tắc không? Trong Phật pháp chúng ta nói tổng trì pháp môn, bạn làm sao có thể nắm vững đại tổng trì pháp môn? Mấu chốt là ở chỗ này. Bất kể là tại gia hay xuất gia, tu hành chứng quả, có thành tựu hay không, hoàn toàn dựa vào bạn có khéo giữ mình hay không. Hôm qua đã nói hộ pháp, bạn có hiểu không? Nếu dùng cách nói hiện đại là bạn có biết yêu quí mình không, nói cho thật rõ một chút là bạn có biết tự trọng không? Hiền Hộ này chính là tự trọng, chính là yêu quí mình. Người thật sự biết yêu quí mình, thật sự biết tự trọng, gìn giữ mình thuận buồm xuôi gió trên con đường Bồ Đề thì đâu có lý nào mà không thành tựu. Cho nên phân từ chỗ này, ý nghĩa thật là vô cùng sâu rộng.
Thiện Tư Duy Bồ Tát tôi đã nêu ra ba điểm.
Thứ nhất, chúng ta phải nhớ bốn ơn nặng, phải thường luôn tư duy bốn ân nặng.
Thứ hai, phải tư duy nỗi khổ của chúng sanh. Chúng sanh trong lục đạo luân hồi vô cùng đau khổ, mê hoặc điên đảo, ngu muội vô tri, tạo nghiệp thọ báo không có ngày ra khỏi. Cái khổ của tam đồ so với cái khổ thế gian chúng ta đây không biết nghiêm trọng gấp bao nhiêu lần. Thường nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh, nếu như bản thân chúng ta không có năng lực vượt qua tam giới, không có năng lực thoát khỏi luân hồi thì quả báo tam đồ chúng ta nhất định phải chịu. Ai mà không tạo nghiệp tam đồ chứ? Người người đều tạo. Bồ Tát Địa Tạng ở trong Kinh Bổn Nguyện nói rất hay: “Chúng sanh Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm đều là tội lỗi”. Lời nói này là sự thật, hoàn toàn không quá đáng. Khởi tâm động niệm đều là tự tư tự lợi, những việc đã làm đều là tổn người mà chẳng lợi cho mình. Người thế gian thường nói “tổn người lợi mình” là sai rồi, tổn người dứt khoát không lợi cho mình. Tổn người mà lợi mình thì việc này là việc tốt, tôi cũng muốn làm. Tổn người mà chẳng lợi mình, bản thân mình chỉ được một chút lợi nhỏ, nhưng quả báo về sau thật không thể tưởng tượng. Tạo ra loại nghiệp nhân ngu muội này, sau đó nhận chịu quả báo địa ngục. Cho nên, nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh, thực tế mà nói, chính là quay đầu lại sẽ nhìn thấy cái khổ của chính mình; không nghĩ nỗi khổ của chúng sanh thì không biết chính mình khổ. Rất ít người thế gian biết chính mình, phần đông là không thấy được chính mình, thấy người khác thì thấy rõ lắm, giống như hai con mắt chỉ nhìn thấy ở bên ngoài mà không thể thấy bên trong. Thế nhưng khi chúng ta nhìn thấy người khác, quay đầu lại liền nghĩ đến mình, họ là chúng sanh, ta cũng là chúng sanh, họ ngày nay tạo nghiệp thọ báo, nghĩ lại ngày nay ta cũng đang tạo nghiệp, tương lai làm sao có thể tránh khỏi khổ báo chứ?
Thứ ba là phải thường nghĩ đến nghiệp chướng sâu nặng của mình, từ vô thỉ kiếp đến nay tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Đời này có thể sống tại đất nước Singapore này, Singapore là đất phước của thế gian, đời trước bạn đã làm một chút việc tốt, ngày nay ở đây hưởng phước, nhưng phước của bạn hưởng hết rồi làm sao đây? Trong khoảng thời gian bạn đang hưởng phước này, bạn có tu phước nữa hay không? Nếu như hưởng phước mà không tu phước, không những không tu phước mà còn tạo tội nghiệp, thì phước báo này của bạn sẽ tiêu hết rất nhanh, tội báo của bạn sẽ hiện ra rất mau, việc phiền phức này sẽ lớn rồi. Chúng ta tư duy phải thường nghĩ đến những việc này.
Trên đây là ba việc trước mắt có quan hệ thân thiết với chúng ta.
Trên danh hiệu của Bồ Tát có một chữ “Thiện”, chữ “Thiện” này quá hay, dạy chúng ta phải khéo tư duy. Cái gì gọi là thiện? Phàm là những việc tương ưng với chân như pháp tánh thì đó chính là thiện; đi ngược lại với chân như pháp tánh thì đó là bất thiện. Cách nói này rất khó hiểu, rất khó thể hội, chúng ta phải hạ thấp mức này xuống thì mọi người sẽ dễ hiểu. Cái gì là chân như pháp tánh? Chúng ta nói một cách đơn giản nhất, chính là bộ Kinh này. Chúng ta khởi tâm động niệm, ý nghĩ việc làm không vi phạm lời giáo huấn của bộ Kinh này, đó chính là thiện. Những điều chúng ta nghĩ không ra khỏi phạm vi của bộ Kinh này, những điều chúng ta nói cũng không vi phạm lời giáo huấn của bộ Kinh này, những điều chúng ta làm hoàn toàn dựa vào phương pháp của Kinh điển, đây gọi là thiện. Cho nên, Đại Sư Ấn Quang nói rất hay: “Đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Trên bục giảng của chúng ta có bốn cây trụ, cư sĩ Lý Mộc Nguyên muốn tôi viết cho ông mấy chữ, tôi liền nghĩ đến lời dạy của Đại Sư Ấn Quang: “Đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Tám chữ này rất hay. Ngày nay giảng tám chữ này, đó chân thật là có thể giải cứu kiếp nạn này.
Sao gọi là Đốn Luân? Luân là một loại, đồng loại, đồng luân. Chúng ta thuộc về loại nào? Giáo dục thời xưa của Trung Quốc, khái niệm trung tâm chính là Luân thường. Luân thường bắt đầu từ vợ chồng. Vợ chồng cùng ở trong một nhà, cùng một phòng, phòng chính là một gian, bên ngoài gian buồng là nhà, ở trong nhà có cha con, anh em, bên ngoài nhà là xã hội, trong xã hội có vua tôi, có bè bạn, cho nên giáo dục của Trung Quốc từ xưa đến nay là giáo dục Ngũ luân. Đây là phân ra từng loại, từng loại. Chúng ta hôm nay học Phật rồi, ở trong Ngũ luân có một loại đặc biệt, loại của chúng ta là học Phật. Trong học Phật lại có thể phân làm rất nhiều loại, loại này của chúng ta là tu tông Tịnh Độ. Bạn thuộc về loại nào thì bạn phải làm hết bổn phận của loại đó. Ta ở trong thân phận này, ở địa vị này, ta phải nên làm những công việc gì thì ta nhất định phải làm tốt công việc đó. Đối với xã hội, đối với đồng luân nhất định có cống hiến, dốc hết bổn phận của chúng ta, tự mình làm, khuyên người làm, chính mình dựa vào Kinh điển y giáo phụng hành, sau đó còn khuyên bảo người khác, đây gọi là Tận Phận. Bạn thấy trong Kinh, Thế Tôn đã nói biết bao nhiêu lần với chúng ta, khuyến khích chúng ta “thọ trì, đọc tụng, vì người diễn nói”. Ý nghĩa này rất sâu.
“Thọ trì”, “thọ” là chúng ta hoàn toàn tiếp nhận những gì trong Kinh đã nói, những lời dạy của Phật, những lý luận mà Phật đã nói, những phương pháp mà Phật đã nói, những cảnh giới mà Phật đã diễn bày, đây gọi là thọ. “Trì” là sau khi tiếp nhận rồi thì mãi mãi gìn giữ không để bị mất và không biến chất, quyết định tuân thủ, đây là bổn phận của chúng ta. Không chỉ có thế mà chúng ta còn phải diễn thuyết cho người.
“Diễn” là gì vậy? Làm ra tấm gương để cho người ta xem, đó là biểu diễn. Đời sống chính là biểu diễn, làm tấm gương cho người ta thấy. Ta làm tấm gương như vậy có tương ưng với trong Kinh đã nói hay không? Thí dụ, Kinh điển Phật dạy chúng ta là “khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi người”, nếu như chúng ta hằng ngày nói những lời xấu về người khác, thế là sai rồi, vậy không tương ưng với lời Kinh đã nói, vậy là bạn không có thọ trì, bạn không có vì người diễn nói. Làm gương cho người ta xem, cái gương mẫu này nhất định phải tương ưng với lời trong Kinh đã nói, hoàn toàn như nhau mới được.
Kiến thức của thế xuất thế gian, Phật pháp là giáo dục, không phải tôn giáo. Giáo dục là cầu học, chúng ta có tâm cung kính, tâm chân thành cầu học nơi các bậc lão sư, người xưa thường nói “Chỉ văn lai học, vị văn vãng giáo”, đó là “sư đạo”. Chỉ có học trò đến cầu học, không có chuyện thầy giáo đi tìm học trò để dạy, không có đạo lý này, nếu thầy giáo đi tìm học trò để dạy thì đạo này không còn “tôn” rồi, tôn sư trọng đạo mà. Sư đạo có sự tôn nghiêm của sư đạo, bạn nhất định phải hiểu được để cầu học. Vị nào là thiện tri thức? Vị nào là thầy giáo tốt? Cái luân sư đạo này là từ xưa đến nay tổ tổ truyền nhau, ai là thầy giáo tốt của bạn? Ngay trong tâm trí của chính bạn, người nào mà bạn ngưỡng mộ nhất, khâm phục nhất thì người đó chính là thiện tri thức của bạn, chính là thầy giáo tốt của bạn. Người mà trong lòng bạn khâm phục, cho dù họ là người phàm, họ là một người lặng lẽ âm thầm, nhưng bạn khâm phục họ nhất, kính ngưỡng họ nhất, bạn học với họ thì bạn có thể thành công. Phật A Di Đà đến, Phật Thích Ca Mâu Ni đến, nếu bạn không có lòng cung kính đối với các Ngài, bạn không ngưỡng mộ các Ngài, thì cho dù hằng ngày bạn ở cùng với Phật bạn cũng chẳng học được thứ gì cả. Đạo lý này là ở chỗ nào vậy? Kỳ thực rất đơn giản, bạn không khâm phục các Ngài thì bạn nghe những lời dạy của các Ngài mà không chịu làm theo. Các Ngài dạy bạn làm thế này nhưng bạn làm thế khác, bạn không vâng lời. Chân thật kính ngưỡng Thầy giáo là bạn vâng lời. Bản thân thầy giáo không thành tựu, điều này không quan trọng. Thầy làm không được, thầy dạy bạn, bạn đều làm được, còn thầy thì mọi thứ không đúng pháp, thế nhưng phương pháp mà họ dạy cho bạn thì đúng như pháp, bạn thảy đều làm theo tất cả, bạn thành Phật, bạn thành Tổ, bạn vượt qua thầy rồi. Cho nên chúng ta cầu thiện tri thức ở đâu? Thiện tri thức chính là người mà trong tâm trí của ta thấy ngưỡng mộ nhất, khâm phục nhất, họ nói với ta, ta tuân theo 100%, một chút cũng không dám trái phạm thì người này chính là thiện tri thức của ta. Không phải nói người có danh tiếng lớn, thanh danh lừng lẫy, lời họ nói bạn bằng mặt mà không bằng lòng, vậy thì nhất định không thể có được thành tựu. Không những không thể có thành tựu, hơn nữa còn tạo tác tội nghiệp rất nặng. Tội nghiệp gì vậy? Lừa thầy, diệt Tổ. Bạn lừa dối thầy thì việc gì bạn phải đi bái họ làm thầy chứ? Bái họ làm thầy lại phải lừa dối thầy; thầy là có sự truyền thừa của thầy, tổ tổ truyền nhau, bạn lừa dối thầy là bạn đã xem thường Tổ sư nhiều đời, hướng lên trên mà nói là xem thường cả Phật Bồ Tát. Đây là sự thật. Nếu như bạn thật sự có thể tôn kính Phật Bồ Tát, Kinh này là lời Phật nói bạn làm sao dám trái phạm. Bạn đã đọc Kinh này rồi, thậm chí là giảng Kinh này cho người ta nghe, giảng ba hoa khoác lác, giảng đến nỗi khiến người ta tán thán, nhưng lời nói việc làm của mình lại hoàn toàn trái với lời trong Kinh đã nói, vậy là bạn không tin Phật.
Tin Phật khó lắm, rất khó. Tôi học Phật được bảy năm thì phát tâm xuất gia. Tôi vừa xuất gia thì liền bắt đầu giảng Kinh, dạy ở Phật Học Viện. Sau khi xuất gia hai năm, cũng tức là đã giảng Kinh được hai năm rồi tôi mới thọ giới. Sau khi thọ giới xong, tôi đến Đài Trung để thăm Lý lão sư. Ngài vừa gặp mặt tôi liền nói: “Ông phải tin Phật!”. Tôi vừa nghe vậy bỗng ngây người ra, mới gặp mặt chưa nói lời nào liền chỉ vào tôi nói “ông phải tin Phật”. Tôi ngây người ra một lát, thầy liền giải thích rõ cho tôi nghe là tin Phật không đơn giản, không phải nói hiện nay bạn đã xuất gia, đã thọ giới rồi, hơn nữa đã đang làm công việc hoằng pháp là đã thật sự tin Phật; có người cả một đời xuất gia, 80 – 90 năm vẫn không tin Phật. Tiêu chuẩn tin Phật của thầy là gì? Lời Phật nói trong Kinh bạn thảy đều làm được hết mới gọi là tin Phật. Bạn là người chưa làm được thì là bạn không tin. Đã tin thì đâu có lý nào mà không làm? Không chịu làm chính là không chịu tin tưởng. Cho nên thầy nói với tôi, hai chữ “Tin Phật” này khó lắm, rất khó.
Cho nên, Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm, trong Đại Trí Độ Luận đều nói rõ: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu”, tín tâm thành tựu thì không có việc nào mà chẳng thành tựu. Chúng ta tu hành chứng quả, tín tâm là cội nguồn, là cội gốc. Bạn không có tín tâm kiên cố thì sao bạn có thể thành tựu được? Nếu bạn có niềm tin này thì “Đốn luân tận phận” bạn nhất định làm được.
“Nhàn tà tồn thành”, “tà” là tà tri tà kiến, “nhàn” là ngăn chặn, bạn phải biết ngăn chặn, phòng ngừa tà tri tà kiến.
Phương pháp phòng ngừa, cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất cao minh, hôm đó ông nói mấy lời với mọi người, tôi đã nghe được, tôi đồng ý. Việc đầu tiên ông nói với mọi người là không nên nghe điện thoại, điện thoại vừa cầm lên tay là nói liền một giờ, nửa giờ, toàn là thị phi. Cho nên, ông bảo thành viên của Tịnh Tông Học Hội là nếu không có việc gì thì không nên nghe điện thoại, cũng không nên gọi điện, có thể tránh rất nhiều những tư tưởng, khái niệm không chính xác. Cho nên tôi thường nói, không xem báo chí, không xem ti vi, không nghe đài phát thì tâm của bạn thanh tịnh. Ngày nay chúng ta trong xã hội này, cư sĩ tại gia có công việc, có sự nghiệp, trong công việc sự nghiệp của bạn, những việc cần phải biết thì bạn hãy tiếp xúc, những việc không cần phải biết thì nhất mực không nên biết, có như vậy mới giữ gìn tâm thanh tịnh của bạn. Đây gọi là Thiện Tư Duy, chân thật làm được “Đốn luân tận phận, nhàn tà tồn thành”. Lòng dạ đối với người phải chân thành, không hề mảy may hư dối. Người ta dùng tâm giả dối đối xử với chúng ta, chúng ta phải lấy tâm chân thành đối xử với họ, vì sao vậy? Họ làm chuyện sáu cõi luân hồi, làm chuyện ba đường ác, còn ta phải đến thế giới Tây Phương Cực Lạc gặp Phật A Di Đà. Người mà Phật A Di Đà hoan nghênh là người có tâm chân thành, người mà tâm thị phi thì Phật A Di Đà sẽ không tiếp nhận. Đại đức xưa ở trong chú giải Kinh điển nói rất rõ ràng, rất tường tận là lời nói cùng việc làm không hợp nhau thì niệm Phật cho nhiều đi nữa cũng không thể vãng sanh. Nếu như bản thân chúng ta hạ quyết tâm, có hoằng nguyện này, ở trong một đời này nhất định phải vãng sanh, nhất định phải y giáo phụng hành. Cho nên pháp hội lần này, pháp duyên của chúng ta thù thắng, tôi nhất định giảng qua bộ Kinh này một lần cho thật tỏ tường, thấu triệt. Chúng ta không giới hạn thời gian, ba năm, năm năm cũng không hề gì. Các bạn đến nghe, nghe một lần thì có thọ dụng của một lần, một lần nghe hiểu rồi, bạn có thể theo đó mà làm thì cả đời thọ dụng không hết, huống hồ hội nào bạn cũng đều đến nghe, vậy thì còn gì bằng nữa không? Thế nhưng chúng ta làm như vậy thì Thiện Tư Duy này của chúng ta có đạt đến thật viên mãn không? Vẫn chưa! Chẳng qua cũng chỉ được bảy, tám phần mà thôi. Làm thế nào mới được viên mãn? Nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật thì mới viên mãn, ở trong tâm mỗi niệm đều là A Di Đà Phật thì quyết định được sinh về Tịnh Độ. Cho nên tôi cũng đã từng khuyên một số bạn đồng tu, tôi cũng khuyên người ta cứ nghe điện thoại, Lý Mộc Nguyên nói là không nghe điện thoại, còn tôi nói có thể nghe điện thoại, nhưng nghe điện thoại phải nghe thế nào vậy? Chúng ta chỉ niệm một câu A Di Đà Phật, họ nói chuyện thì cứ nói chuyện, ta cứ niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật,… Họ nói một giờ thì chúng ta niệm A Di Đà Phật một giờ, không nói thêm lời nào; lời vớ vẩn của họ đến không ngừng thì chúng ta cứ A Di Đà Phật mà tiến tới. Biện pháp này của tôi cũng không tệ, lại không phải tốn phí điện thoại của mình, bạn nghĩ có đúng không? Họ điện thoại đến thì chúng ta đem từng câu, từng câu A Di Đà Phật đổ vào trong A Lại Da Thức của họ. Lời của họ, chúng ta một câu cũng chẳng thèm nghe, thậm chí nếu bạn không muốn nghe thì có thể bịt lỗ tai lại, chỉ miệng chúng ta nói A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thôi. Ta nói thì họ nghe được, còn họ nói ta chẳng nghe thấy. Cách này thì quá tuyệt vời, cách này rất hay!
Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm niệm có Phật A Di Đà, đây mới gọi là Thiện Tư Duy làm đến được viên mãn. Cho nên chúng ta phải học Bồ Tát Thiện Tư Duy, áp dụng ngay trong đời sống của chính mình, chính mình chính là Hiền Hộ Bồ Tát, chính mình chính là Thiện Tư Duy Bồ Tát. Cần phải nên biết rằng, ở trong Phật pháp có nói rất nhiều đến danh hiệu của chư Phật. Bạn thấy hiện nay có rất nhiều đạo tràng, khi tết đến thì lạy vạn Phật. Trong Đại Tạng Kinh có một bộ Kinh gọi là “Vạn Phật Danh Kinh”. Phật Danh Kinh đều là danh hiệu Phật, trong đó tổng cộng có hơn 12.000 danh hiệu Phật. Những vị Phật đó là ai vậy? Nói quí vị biết, đều là chính mình, đều là tánh đức của chính mình. Tánh đức tại sao có nhiều danh hiệu đến như vậy? Tánh đức là không có chỗ cùng tận, đừng nói một vạn danh hiệu nói không hết, mà vạn ức danh hiệu cũng nói không hết, vô lượng vô biên tánh đức, cho nên bao gồm tất cả danh hiệu Phật là tánh đức của chính mình, bao gồm tất cả danh hiệu Bồ Tát là đức tu của chính mình. Từ đức tu hiển hiện ra tánh đức của chính chúng ta, cho nên chúng ta niệm những danh hiệu Bồ Tát này là niệm ai? Niệm chính mình! Chính mình biết gìn giữ chính mình, biết tự trọng, biết bảo vệ pháp của mình, vậy bạn chính là Hiền Hộ Bồ Tát; tư tưởng kiến giải của bạn thuần chánh thì bạn chính là Bồ Tát Thiện Tư Duy, không phải người khác. Những danh hiệu Bồ Tát này đặt ở nơi ta, Bồ Tát hiện thân để biểu pháp là Ngài chỉ dạy chúng ta. Như phía trước tôi có nói với mọi người, tôi nêu ra một ví dụ như Tứ Thiên Vương, Bồ Tát Di Lặc của điện Thiên Vương toàn là chính mình, hoàn toàn áp dụng vào chính bản thân chúng ta, đâu phải là cảnh giới bên ngoài? Như vậy chúng ta mới có được thọ dụng đích thực. Từ đó cho thấy, mười sáu vị Bồ Tát này cũng không ngoại lệ, cũng là đức tu viên mãn của chúng ta. Mười sáu không phải là con số, mà mười sáu là tiêu biểu cho sự viên mãn. Hiển tông của chúng ta phần nhiều là lấy bảy tiêu biểu viên mãn, hoặc lấy mười tiêu biểu viên mãn. Trong Mật tông, phần nhiều là dùng 16 hoặc dùng 21 để tiêu biểu viên mãn. Trong Kinh A Di Đà nói mười vạn ức cõi Phật, đây là sự viên mãn của Hiển tông nói. Bản Kinh nói 210 ức cõi Phật, đó là 21 mở rộng đến 210 ức, đây đều là ý nghĩa biểu pháp. Nếu chúng ta xem nó là con số thì là sai rồi, thì bạn sẽ không thể hội được nghĩa Kinh ở bên trong.
Trích đoạn trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 6-7