Pháp Vi Diệu

Niệm Phật vãng sanh – Chúng ta có thể làm được không?

Niệm Phật Vãng Sanh – Chúng Ta Có Thể Làm Được Hay Không? Lược Giảng Di Đà Đại Nguyện – Giảng lần 1, Hòa Thượng Tịnh Không chủ giảng.

NIỆM PHẬT VÃNG SANH
TÔI CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC HAY KHÔNG?
LƯỢC GIẢNG ĐẠI NGUYỆN DI ĐÀ

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Giảng tại: Đài Truyền Hình Vệ Tinh Hoa Tạng, Đài Bắc, Đài Loan
Thời gian: Tháng 1 năm 2018
Dịch giả: Thích Thiện Trang

TẬP 1
Thời gian: 01/01/2018
(AMTB: 02-045-0001)

Hôm nay là ngày đầu năm mới 2018, đồng tu chúng ta muốn tôi nói vài câu cùng với mọi người ở nơi đây, đã đưa ra một chủ đề, chủ đề đó là: Niệm Phật Vãng Sanh, Tôi Có Thể Làm Được Hay Không? Lược Giảng Đại Nguyện Di Đà.

Nếu như tôi nói, tôi chưa nắm chắc, tôi không làm được, vậy những năm đó đến nay các vị học Phật với tôi sẽ thấy rất đau lòng. Tôi làm không được, quý vị có bao nhiêu người làm được? Vì vậy, tôi làm không được, tôi cũng không thể khiến mọi người không làm được, đây là ý nghĩa quan trọng. Tôi làm không được không quan trọng, chỉ cần mọi người làm được. Mọi người làm có làm được hay không? Khẳng định có thể làm được.

Chúng ta xem trong Tập Chú Giải của Đại đức Niệm Công, Ngài nói với tôi làm như thế nào. 善導大師於四十八願當中,稱定成正覺、光明無量、壽命無量、諸佛稱歎與十念必生 “Thiện Đạo Đại sư ư tứ thập bát nguyện đương trung, xưng định thành Chánh Giác, quang minh vô lượng, thọ mạn vô lượng, chư Phật xưng thán dữ thập niệm tất sanh” (Trong 48 nguyện, Đại sư Thiện Ðạo khen ngợi năm nguyện: “Quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” và “mười niệm ắt được vãng sanh”), năm nguyện này, Đại sư Thiện Đạo nói với chúng ta, đây là nguyện chân thật của A Di Đà Phật. Ghi nhớ, là nguyện chân thật. Coi đây là tâm yếu của 48 đại nguyện. Có thể thấy 48 nguyện nhiếp tại năm nguyện này, năm nguyện này cũng nhiếp tại nguyện thứ 18. Nguyện thứ 18 là gì? Là mười niệm tất sanh (mười niệm ắt được vãng sanh).

Đại sư Ngẫu Ích nói với chúng ta, là lời trong A Di Đà Kinh Yếu Giải rằng: Sanh qua Thế Giới Cực Lạc được hay không, hoàn toàn quyết định ở có tín nguyện hay không. Ghi nhớ, quý vị có thật tin, thật sự tin phương tây có Thế Giới Cực Lạc, Thế Giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thị hiện ở phương tây, tiếp dẫn chúng sanh chín Pháp giới vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc để thành Phật. Chỉ cần có tín có nguyện, quyết định tin tưởng, không có hoài nghi. Lời của Phật nói làm sao có thể hoài nghi được? Phật nhất định không có nói dối. Người có phước thì tin được, người không có phước thì không tin. Trong 48 nguyện, Đại sư Thiện Đạo nói chỉ năm nguyện này là chân thật nguyện, quan trọng hơn tất cả nguyện khác. A Di Đà Phật nói lời giữ lời, không có một câu nào là giả dối. Năm nguyện: “Quyết thành Chánh Giác”, “quang minh vô lượng”, “thọ mạng vô lượng”, “chư Phật khen ngợi” và “mười niệm ắt được vãng sanh” là nguyện chân thật. Quý vị có thể tin, có thể phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thì nhất định được sanh. Sanh đến Thế Giới Cực Lạc, năm nguyện này là chân thật, đến Thế Giới Cực Lạc thì thế nào? Thứ nhất, quyết thành Chánh Giác. Ý nghĩa câu này gì? Là thành Phật rồi, sanh đến Thế Giới Cực Lạc, thì quyết định thành Phật ở Thế Giới Cực Lạc, không cần hoài nghi nữa. Sau khi thành Phật, giống như A Di Đà Phật, quang minh vô lượng, cùng với A Di Đà Phật chẳng khác, ánh sáng của A Di Đà Phật, soi chiếu khắp mười phương tất cả cõi nước chư Phật; Thọ mạng vô lượng, A Di Đà Phật vô lượng thọ, mỗi một người vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc cũng là vô lượng thọ, đây không phải giả.

Lời của Đại sư Thiện Đạo là thật. Tịnh Tông tại Nhật Bản, họ tôn kính Đại sư Thiện Đạo, họ cho rằng Đại sư Thiện Đạo, là hóa thân của A Di Đà Phật tại thế giới chúng ta này, coi Đại sư Thiện Đạo là A Di Đà Phật. Niềm tin của Tịnh Độ Tông Nhật Bản không thua kém chúng ta, họ có tín, có nguyện, có hạnh, nên người vãng sanh không ít. Chúng ta phải hướng họ mà học tập, chúng ta không thể tụt ra phía sau người ta. Những năm đầu Tịnh Tông truyền từ Ấn Độ đến Trung Hoa, rồi do từ Trung Hoa truyền đến Nhật Bản, vì vậy chúng ta quyết không thể lạc hậu được.

Duyên phận đời này thù thắng không gì bằng, chúng ta được thân người, nghe được Phật pháp, nghe được năm kinh Tịnh Độ, đặc biệt là bản hội tập của Cư sĩ Hạ Liên Cư, hiếm có khó gặp, nói không hết. Chúng ta hy vọng đồng học Tịnh Tông, cả đời nương theo bộ kinh này, là bản hội tập Kinh Vô Lượng Thọ của Liên Công, nương theo bộ chú giải, là Tập Chú của Lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cả đời niềm tin kiên cố, nguyện tâm kiên cố, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, thì không một ai là không vãng sanh.

Đại sư Thiện Đạo quá tuyệt vời, Ngài đem 48 nguyện quy nạp thành năm nguyện, năm nguyện này, thì mỗi một nguyện hàm nhiếp 48 nguyện, mỗi nguyện không rời 48 nguyện. Bốn mươi tám nguyện quá dài, sợ không nhớ nổi, nên quy nạp thành năm nguyện để dễ nhớ. Đặc biệt thứ nhất là quyết thành Chánh Giác, vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, bảo đảm quý vị thành Phật, một đời chứng đắc cứu cánh viên mãn, giống như Đại sư Thiện Đạo, tiến thêm bước nữa, là giống như A Di Đà Phật. Không chỉ quyết định thành Phật, mà quang thọ vô lượng giống như Phật; A Di Đà Phật quang minh vô lượng, chiếu khắp hư không Pháp giới, mỗi một đồng tu vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc cũng như vậy, thọ mạng vô lượng, đó là mong cầu của chúng ta. Ba câu này, là đã thành Phật rồi.

Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, viên viên mãn mãn ngay trong năm nguyện này, thật sự không thể nghĩ bàn! Năm nguyện này lại hàm nhiếp viên viên mãn mãn trong nguyện thứ 18. Nguyện thứ 18 là gì? Là mười niệm tất vãng sanh. Quý vị có nắm chắc hay không? Từ đâu để mà nắm chắc? Là từ niềm tin để mà nắm chắc, tôi tin tôi là có nắm chắc, tôi không tin tôi thì không có nắm chắc.

Năm nguyện này, 分為信、願、行加以說明。淨業行人必須具此信願行三資糧,念佛方能往生。實則(實實在在的說)四十八願當中每一願. “Phân vi tín, nguyện, hạnh gia dĩ thuyết minh. Tịnh nghiệp hành nhân tất tu cụ thử tín nguyện hạnh, tam tư lương, niệm Phật phương năng vãng sanh. Thực tắc (thật thật tại tại đích thuyết) tứ thập bát nguyện đương trung mỗi nhất nguyện” (Chia làm tín, nguyện, hạnh để nói càng rõ ràng. Người tu Tịnh nghiệp ắt phải đầy đủ ba tư lương tín nguyện hành này, thì niệm Phật mới có thể vãng sanh. Nói thật sự là ngay trong mỗi một nguyện có cả 48 nguyện), nghĩa lý ở đây bao hàm rất sâu, không gì hơn là để giúp chúng sanh đầy đủ tín nguyện hạnh. Nói tín nguyện hạnh được rõ ràng nhất, minh bạch nhất là Đại sư Ngẫu Ích. Đây đều là những Đại sĩ, Đại đức của Tịnh Độ Tông. Hy vọng mọi người đã học tập môn công khóa này, nên tín tâm kiên cố, không có hoài nghi nữa. Vậy thì chúc mừng quý vị, quý vị thật thành tựu rồi, thành tựu thế nào? Là quyết thành Chánh Giác, thành tựu tuyệt vời rồi, thành tựu không gì thù thắng hơn.

Câu sau cùng này nói với chúng ta, là lời nói rất thật, ngay trong mỗi một nguyện có cả 48 nguyện, ý nghĩa câu này, không gì hơn là đều bảo chúng sanh đầy đủ tín nguyện hạnh. Hạnh là niệm Phật, một câu Nam Mô A Di Đà Phật, tốt!

Tại chỗ này, đem ý nghĩa đó chia làm ba phần là: Tín, nguyện, hạnh, thứ nhất là phần tín. 第十二、定成正覺願:我作佛時,所有眾生,生我國者,遠離分別,諸根寂靜,若不決定成等正覺,證大涅槃者,不取正覺。往生者決定成佛,正顯彌陀的本心,唯以一佛乘,廣度無邊眾生於究竟涅槃也 “Đệ thập nhị, Định Thành Chánh Giác nguyện: Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh, nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết-bàn giả, bất thủ Chánh Giác. Vãng sanh giả quyết định thành Phật, chánh hiển Di Đà đích bổn tâm, duy dĩ nhất Phật thừa, quảng độ vô biên chúng sanh ư cứu cánh Niết-bàn dã” (Nguyện mười hai, quyết định thành Chánh Giác: Lúc tôi thành Phật, tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi, xa rời phân biệt, các căn tịch tĩnh, nếu không quyết định thành Ðẳng Chánh Giác, chứng Ðại Niết Bàn, thì tôi chẳng giữ ngôi Chánh Giác. Người vãng sanh quyết định thành Phật; đúng là thể hiện rõ tâm nguyện Phật A Di Ðà: chỉ lấy một Phật thừa để rộng độ vô biên chúng sanh đến Niết Bàn rốt ráo vậy). Câu này nói được hay! 可見此願 “Khả kiến thử nguyện” (có thể thấy nguyện này), thực là tâm tủy của 48 nguyện A Di Đà Phật. Bổn hoài của A Di Đà Phật, là vì một sự việc này, đó là việc gì? 一切眾生決定成佛 Là tất cả chúng sanh quyết định thành Phật. Để thực hiện nguyện này, mới có đại nguyện thù thắng là mười niệm tất được vãng sanh. Mười niệm tất được vãng sanh là nguyện thứ 18.

願文當中遠離分別,即捨除分別之妄惑,了達真如即萬法,萬法即真如 “Nguyện văn đương trung viễn ly phân biệt, tức xả trừ phân biệt chi vọng hoặc, liễu đạt chân như tức vạn pháp, vạn pháp tức chân như” (Trong lời nguyện này, “viễn ly phân biệt” tức là xả trừ vọng hoặc của phân biệt, liễu đạt: Chân Như tức là vạn pháp, vạn pháp tức là Chân Như). Mấy câu nói này thật là then chốt, vô cùng quan trọng. Phàm phu chúng ta niệm Phật một đời, không có nắm chắc vãng sanh, nguyên nhân là vì sao? Vì tạp niệm quá nhiều, chính là phân biệt nói trong đây. Trong lời nguyện này, viễn ly phân biệt, tức là xả trừ vọng hoặc của phân biệt. Phân biệt là mê hoặc, sự mê hoặc này không phải là thật, mà là giả, là hư vọng thôi. Viễn ly phân biệt, tức là buông xuống vạn duyên. Thì mới có thể liễu đạt, liễu là thấy rõ, đạt là thông đạt, liễu đạt điều gì? Liễu đạt Chân Như tức vạn pháp, vạn pháp tức là Chân Như. Chân Như là gì? Chân Như là Tự-tánh. Tự-tánh có thể sanh, có thể hiện, có thể biến; biến của Tự-tánh là hư không, là Pháp giới, là cõi nước chư Phật mười phương, là vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Cho nên, quý vị thật sự rõ ràng, thông đạt rồi, thì vạn pháp tức là Chân Như, Chân Như tức là Tự-tánh, Tự-tánh có thể sanh, còn vạn pháp là bị sanh. Sau khi làm rõ ràng, thật đã buông xuống vạn duyên, thì trong sáu thời này như như bất động. Đó tức là chân như. Cho nên, liễu đạt là nhìn thấu, sau khi nhìn thấu thì đáng quý nhất là buông xuống, buông xuống liền chứng được Chân Như. Chân Như ở đâu? Chân Như tức ở trên vạn pháp, vạn pháp tức là Chân Như, Chân Như tức là vạn pháp. Không còn khởi tâm động niệm nữa, tốt! 六根同歸寂靜,身口意寂靜 “Lục căn đồng quy tịch tĩnh, thân khẩu ý tịch tĩnh” (Sáu căn đồng quy tịch tĩnh, thân khẩu ý tịch tĩnh), mà tịch tĩnh chính là lý thể của Niết-bàn. Lý của Niết-bàn là gì? Thể của Niết-bàn là gì? Là buông xuống vạn duyên, như như bất động.

由於遠離分別之妄惑,諸根寂靜,契入涅槃之理 “Do ư viễn ly phân biệt chi vọng hoặc, chư căn tịch tĩnh, khế nhập Niết-bàn chi lý” (Do vì rời xa vọng hoặc của phân biệt, các căn tịch tĩnh, nên khế nhập Lý của Niết-bàn), nên tiếp theo nói, 決定成等正覺,證大涅槃 “Quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết-bàn”. Niết-bàn là Phạn ngữ, dịch thành Trung văn là: Tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không diệt. Quý vị đã chứng được tất cả pháp không sanh không diệt, thì gọi đó là chứng được Đại Bát Niết-bàn, cũng tức là lời nói của phía sau chú giải này: Quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết-bàn.

淨業行人要信只要發願求生,定能往生自心本具的極樂世界 “Tịnh nghiệp hành nhân yếu tín chỉ yếu phát nguyện cầu sanh, định năng vãng sanh, tự tâm bổn cụ đích Cực Lạc Thế Giới” (Người tu hành Tịnh nghiệp cần phải tin, miễn là phát nguyện cầu sanh, thì nhất định được vãng sanh, bởi chính tâm mình vốn đầy đủ Thế Giới Cực Lạc). Mỗi chữ mỗi câu trong đây đều quan trọng, chúng ta cần học tập nghiêm túc. Tin rằng niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. 信西方真實有極樂世界 “Tín tây phương chân thật hữu Cực Lạc Thế Giới” (Tin rằng phương tây thật sự có Thế Giới Cực Lạc), Thế Giới Cực Lạc thật sự có A Di Đà Phật, 信極樂世界不出現前一念心性之外,因為心外無法 “Tín Cực Lạc Thế Giới bất xuất hiện tiền nhất niệm tâm tánh chi ngoại, nhân vi ngoại tâm vô pháp” (Tin rằng Thế Giới Cực Lạc không ngoài một niệm của tâm tánh hiện ra, bởi vì ngoài tâm không có pháp).

Tín, nguyện, hạnh, ba cương mục lớn này, phần tín giới thiệu đến đây thôi, buổi học tiếp theo chúng ta lại xem phần thứ hai là nguyện. Có tín còn phải có nguyện, lại thêm một câu Phật hiệu này là viên mãn rồi, quyết định được vãng sanh.

Tốt rồi, hẹn ngày mai gặp lại quý vị.

TẬP 2
Thời gian: 02/01/2018
(AMTB: 02-045-0002)

Mời xem đoạn giảng nghĩa thứ hai, phần nguyện.

Đại sư Thiện Đạo đem 48 nguyện của A Di Đà Phật, quy nạp thành năm nguyện; rồi lại quy nạp thêm lần nữa, đem năm nguyện này quy nạp thành ba khoa: Tín, nguyện, hạnh. Càng làm càng đơn giản, càng đơn giản thì càng quan trọng, khiến chúng ta thật sự lãnh hội được. Pháp môn Tịnh Độ thật rộng lớn, Pháp môn Tịnh Độ thật là thù thắng. buổi trước, chúng ta đã học qua phần tín; hôm nay, chúng ta tiếp tục học phần nguyện.

第十三、光明無量願:我作佛時,光明無量,普照十方,絕勝諸佛,勝於日月之明,千萬億倍。第十三與第十五壽命無量,淨影大師稱為攝法身願,以其攝法身成就也 “Đệ thập tam, quang minh vô lượng nguyện: Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên vạn ức bội. Đệ thập tam dữ đệ thập ngũ thọ mạng vô lượng, Tịnh Ảnh Đại sư xưng vi nhiếp Pháp-thân nguyện, dĩ kỳ nhiếp Pháp-thân thành tựu dã”. (Nguyện mười ba, quang minh vô lượng: Khi tôi thành Phật, ánh sáng vô lượng, chiếu khắp mười phương vượt hẳn chư Phật, hơn ngàn vạn ức lần ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Đại sư Tịnh Ảnh khen: Nguyện mười ba và nguyện mười lăm ‘thọ mạng vô lượng’ là ‘nguyện nhiếp Pháp-thân’, lấy đây để thành tựu Pháp-thân vậy). Sách Chân Giải, đây đều là của cổ Đại đức Nhật Bản, là Đại đức của Tịnh Tông thật sự có thành tựu, quý Ngài vì chúng ra nói tỉ mỉ hai nguyện này, 為真報身之德,又謂此光壽無量二願,為方便法身大悲之本 “vi chân báo thân chi đức, hựu vị thử quang thọ vô lượng nhị nguyện, vi phương tiện Pháp-thân đại bi chi bổn” (là thật đức của Báo-thân, lại nói hai nguyện quang minh và thọ mạng vô lượng này, là gốc đại bi phương tiện của Pháp-thân).

Đồng học chúng ta đều biết, Phật có ba thân là: Pháp-thân, Báo-thân, Hóa-thân (hay Ứng-hóa-thân). A Di Đà Phật ở Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, thị hiện đó là Báo-thân. Báo-thân, để độ Thánh giả Tiểu-thừa và Bồ-tát Đại-thừa. Báo-thân, thì thân hình cao lớn, đối với những người không có phước báo lớn, thì Phật không hiện Báo-thân. Những năm Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện ở thế gian chúng ta, khoảng 2500 năm trước, đó là Ứng-thân, Hóa-thân. Thời gian của Ứng-hóa-thân rất ngắn tạm, cơ duyên đã hết, thì thân Phật không hiện nữa. Vì thời gian ngắn, nên đương nhiên số lượng chúng sanh được độ cũng ít thôi. Báo-thân thì vô lượng thọ. Trong 48 nguyện nói cho chúng ta biết: thọ mạng vô lượng và ánh sáng vô lượng. Chỉ cần thấy hai câu này, thì chúng ta liền biết thân hiện đây là Báo-thân. Báo-thân để độ người Tiểu thừa, cũng độ Bồ-tát Đại thừa, thời gian thọ mạng Báo-thân dài, thuận lợi để độ chúng sanh.

Cho nên, trong sách Chân Giải nói được hay, hai nguyện mười ba và mười lăm này, nguyện mười lăm là thọ mạng vô lượng, nguyện mười ba là ánh sáng vô lượng, ánh sáng biểu thị không gian; thọ mạng biểu thị thời gian. Thời gian-không gian vô hạn, không biên giới, Phật tại hay không? Có, Bồ-tát cũng tại, không phải là Bồ-tát thông thường, mà Pháp-thân Bồ-tát. Nên, A Di Đà Phật ở Thế Giới Cực Lạc, thọ mạng quang minh vô lượng vô biên của thị hiện, là vì để độ 41 địa vị Pháp-thân Đại sĩ, mà hiện thân như vậy. Vì vậy, đây là gốc đại bi phương tiện của Pháp-thân.

Tiếp theo nói, 蓋無量壽則豎窮三際,佛身常住,眾生有依靠;無量光則橫遍十方,德用遍周,攝化無盡;故為大悲方便之本,報身之實德也。故知願中自誓光壽無量,實為一切眾生悉皆光壽無量。極樂依正,只是彌陀法身之流現,故四十八願全顯法身 “Cái vô lượng thọ tắc thụ cùng tam tế, Phật thân thường tại, chúng sanh hữu y kháo; Vô lượng quang tắc hoành biến thập phương, đức dụng biến chu, nhiếp hóa vô tận; cố vi đại bi phương tiện chi bổn, Báo-thân chi thật đức dã. Cố tri nguyện trung tự thệ quang thọ vô lượng, thật vi nhất thiết chúng sanh tất giai quang thọ vô lượng. Cực Lạc y chánh, chỉ thị Di Đà Pháp-thân chi lưu hiện, cố tứ thập bát nguyện toàn hiển Pháp-thân” (Vì vô lượng thọ là theo chiều dọc hết cả ba đời, thân-Phật thường còn để chúng sanh nương tựa. Quang minh vô lượng là theo chiều ngang khắp cả mười phương, đức dụng trọn khắp, nhiếp hóa vô tận; nên là gốc của phương tiện đại bi, thật đức của Báo Thân vậy. Nên biết, trong thệ nguyện quang minh và thọ mạng vô lượng, thật vì tất cả chúng sanh đều có quang minh và thọ mạng vô lượng. Y báo, chánh báo của Cực Lạc chỉ từ Pháp-thân của Phật A Di Ðà hiện ra, nên 48 nguyện chỉ là toàn hiện thị của Pháp-thân). Quý vị phải hiểu rõ tình hình của Thế Giới Cực Lạc, 48 nguyện là nói rõ tóm yếu đơn giản nhất, kinh văn ở trong phẩm này, nói cho chúng ta được rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.

Chúng ta cùng xem, ý nghĩa của nguyện này: Khi Pháp Tạng tôi thành Phật, nguyện ánh sáng của tôi vô lượng vô biên, chiếu khắp mười phương tất cả cõi nước tịnh uế. Thế giới chư Phật, Tịnh-độ, lục đạo luân hồi, uế độ, ở trong nơi ấy hoàn toàn đều thấy được. Pháp sư Vọng Tây nói: 橫攝十方虛空無邊,故國土亦無邊。國土無邊,故眾生亦無邊。眾生無邊,故大悲亦無邊。 “Hoành nhiếp thập phương hư không vô biên, cố quốc độ diệc vô biên. Quốc độ vô biên, cố chúng sanh diệc vô biên. Chúng sanh vô biên, cố đại bi diệc vô biên” (Theo chiều ngang, do mười phương hư không vô biên nên quốc độ cũng vô biên. Do quốc độ vô biên nên chúng sanh cũng vô biên. Do chúng sanh vô biên nên đại bi cũng vô biên). Tiếp theo nói: 大悲無邊,故光明亦無邊。光明無邊,故攝取益無邊 “Đại bi vô biên, cố quang minh diệc vô biên. Quang minh vô biên, cố nhiếp thủ ích vô biên” (Do đại bi vô biên nên quang minh cũng vô biên. Do quang minh vô biên nên nhiếp thủ, lợi ích cũng vô biên). Lại đem tinh giản, 以要言之,欲益無邊,故光無邊 “dĩ yếu ngôn chi, dục ích vô biên, cố quang vô biên” (Lấy lời quan trọng là: vì muốn làm lợi ích vô biên nên quang minh vô biên). Quang là biểu thị của trí huệ, quang minh thọ mạng của Phật là vô lượng vô biên, ánh sáng tuổi thọ của Bồ-tát cũng là vô lượng vô biên. Thế Giới Cực Lạc thù thắng hơn rất nhiều so với thế giới chúng ta đây! Làm sao có thể đem thế giới chúng ta so sánh với Thế Giới Cực Lạc được?

Câu nói này quan trọng nhất trong đây, tức là tín, nguyện. Quý vị phải thật sự tin tưởng, không hoài nghi, thì chúc mừng quý vị, phước của quý vị hiện tiền, đời này quý vị được độ rồi. Được độ điều gì? Là nguyện thứ 18, mười niệm tất vãng sanh. Câu nói này quan trọng, nếu quý vị hỏi tôi: Ngài có nắm chắc vãng sanh không? Thì tôi hỏi ngược lại quý vị rằng: Quý vị có tín nguyện không? Nếu như quý vị thật tin phương tây có Thế Giới Cực Lạc, thật tin tưởng Thế Giới Cực Lạc có A Di Đà Phật, thật sự tin tưởng, không có hoài nghi: tuổi thọ Phật vô lượng, ánh sáng của Phật cũng vô lượng. Đức thứ nhất, thọ mạng vô lượng, là biểu thị thời gian lâu dài, quang minh vô lượng là biểu thị trí huệ, quang minh cũng vô lượng.

Trong đoạn văn kinh này cũng nói đến, 諸佛光明所照遠近,本其前世求道所願功德大小不同 “Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng” (Ánh sáng của chư Phật chiếu xa hay gần, là do sở nguyện công đức cầu đạo của đời trước lớn hay nhỏ không giống nhau), nên đến khi quý Ngài thành Phật, 各自得之,自在所作,不為預計 “các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế” (mỗi vị tự được, chỗ làm tự tại, chẳng cần dự tính), đây là tự nhiên, 阿彌陀佛光明善好,勝於日月之明千億萬倍。可見彌陀光明絕勝諸佛者,蓋因前生願力超絕 “A Di Đà Phật quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyện chi minh thiên ức vạn bội. Khả kiến Di Đà quang minh tuyệt thắng chư Phật giả, cái nhân tiền sanh nguyện lực siêu tuyệt” (Quang minh của A Di Ðà Phật tốt lành, vượt hơn ngàn vạn ức lần ánh sáng của mặt trời mặt trăng. Có thể thấy, quang minh của A Di Ðà Phật vượt xa chư Phật, là do nguyện lực đời trước siêu tuyệt). Chúng ta đọc qua ở phẩm thứ sáu, phẩm thứ sáu là vì chúng ta mà nói rõ ràng 48 nguyện, chúng ta đã đọc rồi, vĩnh viễn để trong tâm, tin sâu không nghi, phát nguyện cầu sanh, thân cận A Di Đà Phật thì đúng rồi. Vì sao vậy? Vì阿彌陀佛威神光明,最尊第一,十方諸佛所不能及 “A Di Đà Phật uy thần quang minh, tối tôn đệ nhất, thập phương chư Phật sở bất năng cập” (Oai thần quang minh của A Di Ðà Phật tôn kính bậc nhất, Chư Phật mười phương không thể bằng được). Bậc thầy như vậy xuất hiện ở thế gian, mà thọ mạng lại vô lượng, thì chúng ta có thể từ bỏ ư? Có thể không theo Ngài học tập ư? Đây là quý vị đặc biệt sai lầm lớn rồi.

Nguyện mười lăm thọ mạng vô lượng, nguyện mười sáu Thanh-văn vô số là: 我作佛時,壽命無量,國中聲聞天人無數,壽命亦皆無量 “Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng, quốc trung Thanh-văn thiên nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng” (Khi tôi làm Phật, thọ mạng vô lượng, Thanh-văn trời người trong nước tôi vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng). Câu này nói tình hình thật sự của Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chuyển lời nói với chúng ta, giới thiệu cho chúng ta. Chúng ta phải có niềm tin, chúng ta phải có tâm nguyện, chúng ta chịu niệm một câu Phật hiệu này, quyết định cầu vãng sanh, thì chúng ta liền có phần rồi.

Thọ mạng vô lượng trong nguyện này, đã chỉ cho thọ mạng vô lượng của Phật, đồng thời cũng nói rõ, Thanh-văn trời người trong nước vô số, thọ mạng đều vô lượng. Ngay trong nguyện mười lăm thọ mạng vô lượng, trước là thọ mạng của giáo chủ cõi nước này vô lượng. Nếu thời gian trụ thế của giáo chủ ngắn, thì thời gian giáo hóa chúng sanh không dài, khiến chúng sanh khó gặp được Phật. Như thế giới chúng ta đây là một ví dụ, thế giới chúng ta đây có hạn, Pháp-vận của Thích Ca Mâu Ni Phật gồm ba thời kỳ: chánh pháp, tượng pháp, và mạt pháp, tổng cộng thời gian là 12 ngàn năm. Lúc Đức Phật ở đời, tuổi thọ loài người là 100 năm, Phật xuất hiện ở thế gian. Về sau, theo sự tạo nghiệp của chúng sanh, nghiệp càng tạo càng sâu, quả báo càng về sau càng đáng sợ, nên chánh pháp đáng lẽ là một ngàn năm, bị rút ngắn thành 500 năm, thời tượng pháp là một ngàn năm, thời mạt pháp là 10 ngàn năm, hiện nay là thời kỳ mạt pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tính ra chúng ta còn không tệ, vì chúng ta sanh ở một ngàn năm đầu của thời kỳ mạt pháp, lại có cơ hội nghe được bản hội tập của Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư, thật không dễ dàng! Chúng ta phải quý trọng cơ hội, ngay trong đời này phải quyết định thành tựu, quyết định vãng sanh, đến Thế Giới Cực Lạc thân gần A Di Đà Phật. Vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc, thì giải quyết vấn đề rồi, thọ mạng của Phật vô lượng, mỗi một người vãng sanh, cũng vô lượng thọ, vô lượng quang giống như Phật, quang là thông minh trí huệ. Tại Thế Giới Cực Lạc, quý vị quyết định thành Chánh Giác, chứng quả vị này, chứng quả vị thế nào? Là cực quả cứu cánh. Nếu không có thọ mạng dài như vậy, không có trí huệ như vậy, thì tu hành của chúng ta không đạt đến thành quả thật sự. May mắn thay, tuổi thọ, quang minh của chúng ta bằng với Phật, có năng lực này của Phật, ở dưới hội ấy của Đức Phật, sẽ viên mãn chứng được Vô-thượng Bồ-đề, cứu cánh Niết-bàn.

Nên phía sau nói được rất hay, A Di Đà Phật là Báo-thân Phật, Cực Lạc là Báo-độ, thọ mạng của giáo chủ vô lượng, là vô lượng thật sự, không phải vô lượng của hữu lượng. Câu nói này rất quan trọng. Dùng ngôn ngữ hiện nay mà diễn đạt, thì thọ mạng vô lượng là chỉ cho vô lượng của tuyệt đối, không phải là vô lượng của tương đối.

Nguyện sau đây nói rõ, 國中人民壽命亦皆無量 “Quốc trung nhân dân thọ mạng diệc giai vô lượng” (Thọ mạng của nhân dân trong nước cũng đều vô lượng). Đại sư Trừng Hiến nói, 人民壽命無量,淨土第一德也 “Nhân dân thọ mạng vô lượng, Tịnh-độ đệ nhất đức dã” (Thọ mạng của nhân dân vô lượng, là đức bậc nhất của Tịnh-độ vậy). Ngài “Vọng Tây”, đây đều là cổ Đại đức của Nhật Bản, cũng cách nói như vậy, 諸樂根本,只在此願 “Chư lạc căn bổn, chỉ tại thử nguyện” (Gốc rễ của sự vui, chỉ ở nơi nguyện này). Nguyện này tức là nguyện thọ mạng vô lượng, đức bậc nhất của Thế Giới Cực Lạc là gì? Là thọ mạng dài. Thật dài, không phải là giả dài, phải ghi nhớ điều này. Cực lạc, gốc rễ của sự vui tột cùng là gì? Là thọ mạng dài, có thời gian để hưởng phước. Nếu thọ mạng ngắn, không đủ thời gian, thì không được rồi.

Lại như, trong Quần Nghi Luận nói: 彼國人民,命極長遠,縱令凡夫,還入變易(了分段生死而入變易生死),究竟成佛 “Bỉ quốc nhân dân, mạng cực trường viễn, túng linh phàm phu, hoàn nhập biến dịch (liễu phần đoạn sanh tử nhi nhập biến dịch sanh tử), cứu cánh thành Phật” (Nhân dân cõi ấy thọ mạng vô cùng dài lâu, dẫu cho phàm phu cũng vào được biến dịch sanh tử (tức là thoát phần đoạn sanh tử, mà vào biến dịch sanh tử), cứu cánh thành Phật). Thế Giới Cực Lạc, 見佛聞法,一切時一切處,皆是增上 “Kiến Phật văn pháp, nhất thiết thời, nhất thiết xứ, giai thị tăng thượng” (Gặp Phật nghe pháp, trong mọi lúc, khắp mọi nơi, đều là tăng thượng duyên), câu nói này rất quan trọng. 無有退緣 “Vô hữu thoái duyên” (không có duyên thoái chuyển). Đã bất thoái chuyển, mà thọ mạng lại vô lượng, hết thảy đều là vô lượng thật sự. Cho nên, không luận là căn tánh thế nào, thượng thượng căn, hay hạ hạ căn, chỉ cần quý vị sanh qua Thế Giới Cực Lạc, thì chắc chắc thành Phật. 稱之為淨土第一德,良有以也 “Xứng chi vi Tịnh-độ đệ nhất đức, lương hữu dĩ dã” (Khen ngợi là đức bậc nhất của Tịnh-độ, thật có nguyên do vậy). Những lời này quan trọng, chúng ta phải ghi nhớ kỹ.

Nguyện thứ mười bảy, nguyện này cũng vô cùng quan trọng, 諸佛稱歎願chư Phật xưng thán nguyện (Nguyện chư Phật khen ngợi): 我作佛時 “Ngã tác Phật thời” (khi tôi làm Phật), tôi ở đây là A Di Đà Phật, tức là lúc A Di Đà Phật thành Phật. 十方世界,無量剎中,無數諸佛,若不共稱歎我名,說我功德國土之善者,不取正覺 “Thập phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh Giác” (vô số chư Phật trong vô lượng cõi nước khắp mười phương thế giới, nếu không cùng khen ngợi danh hiệu của tôi, nói sự tốt lành của công đức cõi nước tôi, thì chẳng lấy Chánh Giác). Đây là nguyện thứ mười bảy. Đi đến đâu để mà tìm? Tìm không được. Chúng ta cần phải ghi nhớ, hiểu rõ cơ hội như vầy rất hiếm có khó được, mà chúng ta hiện nay đã gặp được rồi.

Đại sư Vọng Tây nói, nguyện này rất quan trọng trong 48 nguyện, bởi vì sao? Vì nếu như không có nguyện này, thì chúng ta làm sao mà biết được có Thế Giới Cực Lạc? Làm sao mà biết có A Di Đà Phật? Nên nguyện này quan trọng. Vãng sanh, ngày nay, chúng ta gặp được đại giáo vãng sanh này, hoàn toàn là ân đức của nguyện này, nên khuyên bảo chúng ta hãy khéo nghĩ nhớ ân đức ấy. Ý của Đại sư Vọng Tây nói, nếu không có nguyện này, 則我等身在娑婆穢土,如何能聞彼土之教主與佛剎之名字,彼佛彼土,勝妙功德,清淨莊嚴。若未曾聞,又何由發起求生彼土之勝願。故今日我等能聞淨土法門,實由此願之力。故本師釋尊於此穢土,稱揚讚歎阿彌陀佛,及其國土不可思議功德,令我得聞。故讚曰,四十八願中此願至要 “tắc ngã đẳng thân tại Sa Bà uế độ, như hà năng văn bỉ độ chi giáo chủ dữ Phật-sát chi danh tự, bỉ Phật bỉ độ, thắng diệu công đức, thanh tịnh trang nghiêm. Nhược vị tằng văn, hựu hà do phát khởi cầu sanh bỉ độ chi thắng nguyện. Cố kim nhật ngã đẳng năng văn Tịnh-độ pháp môn, thật do thử nguyện chi lực. Cố Bổn sư Thích Tôn ư thử uế độ, xưng dương tán thán A Di Đà Phật, cập kỳ quốc độ bất khả tư nghì công đức, linh ngã đắc văn. Cố tán viết, tứ thập bát nguyện trung thử nguyện chí yếu” (thì thân chúng ta ở cõi Sa Bà uế độ này, làm sao nghe được danh hiệu của vị giáo chủ và cõi nước ấy? Cõi đó, Phật ấy công đức tuyệt vời, thanh tịnh trang nghiêm. Nhưng nếu ta chưa từng được nghe biết thì do đâu mà có thể phát khởi nguyện thù thắng cầu sanh cõi ấy được? Vì vậy, ngày nay chúng ta nghe được pháp môn Tịnh-độ, thật do sức của nguyện này. Nên trong cõi uế độ đây, đức Bổn Sư Thích Ca mới xưng dương, tán thán A Di Ðà Phật và công đức chẳng thể nghĩ bàn của cõi ấy, khiến cho chúng ta được nghe biết. Bởi thế, khen rằng: Nguyện này là quan trọng nhất trong 48 nguyện). Quá quan trọng rồi!

Trong sách Hội Sớ nói khen ngợi tên tôi, 稱我名者 “Xưng ngã danh giả” (khen ngợi tên tôi), đây là có ba ý nghĩa: thứ nhất, 諸佛稱揚彼佛德號 “Chư Phật xưng dương bỉ Phật đức hiệu” (Chư Phật khen ngợi đức hiệu của Phật ấy). Thứ hai, 諸佛咨嗟稱名之人。如彼小經 “Chư Phật tư ta xưng danh chi nhân. Như bỉ Tiểu Kinh” (Chư Phật khen ngợi người xưng danh, như trong Tiểu Kinh), Tiểu Kinh là Kinh A Di Đà, 誠證護念稱名之人 “thành chứng hộ niệm xưng danh chi nhân” (thật sự làm chứng, hộ niệm cho người xưng danh). Thứ ba, giữa chư Phật và chư Phật cũng khen ngợi lẫn nhau. Chúng ta ở thế gian này, lắng lòng quán sát đoàn thể nào đó là hưng hay suy, chỉ nhìn qua là biết ngay, nhìn thế nào? Là xem họ có khen ngợi lẫn nhau hay không. Nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có Tăng khen Tăng, thì quyết định hưng vượng; Nếu như phỉ báng lẫn nhau, thì nhất định suy vong, suy thoái, diệt vong, không thể không biết điều này.

Tiếp theo lại nói, 三世諸佛,依念彌陀三昧,成等正覺故 “Tam thế chư Phật, y niệm Di Đà tam muội, thành Đẳng Chánh Giác cố” (Chư Phật ba đời nương nhờ niệm Di Ðà tam-muội nên thành Ðẳng Chánh Giác), đây biểu thị chư Phật khen ngợi có ba nghĩa: Một là chư Phật khen ngợi Thánh hiệu của Phật ấy, Phật cùng Phật chẳng có không khen ngợi lẫn nhau. Hai là chư Phật khen ngợi tất cả người niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Chỉ cần quý vị chịu niệm A Di Đà Phật, ghi nhớ, thì tất cả chư Phật khen ngợi quý vị, hiếm có khó gặp. Chúng ta hy vọng được chư Phật khen ngợi chúng ta, thì hãy lão thật niệm một câu A Di Đà Phật là được rồi. Ba là諸佛本身亦稱念彌陀聖號,依念佛三昧圓成佛果 “chư Phật bổn thân diệc xưng niệm Di Đà thánh hiệu, y niệm Phật tam muội viên thành Phật quả” (bản thân chư Phật cũng xưng niệm thánh hiệu A Di Ðà, nương nhờ Niệm Phật tam-muội để viên thành Phật quả).

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi, ngày mai vẫn còn một đoạn là phần hạnh. Trong tín, nguyện, hạnh, thì hạnh là nhất tâm xưng niệm.

TẬP 3
Thời gian: 03/01/2018
(AMTB: 02-045-0003)

Kính chào chư vị Pháp sư, chư vị đồng học, hôm nay là ngày 03 tháng 01 năm 2018, chúng ta vẫn tiếp tục xem đoạn giảng nghĩa thứ ba, phần hạnh. Hai buổi trước, chúng ta đã giảng qua tín và nguyện, hôm nay chúng ta giảng phần hạnh. Tín, nguyện, hạnh là ba tư lương nhất định không được thiếu của Tịnh Tông, nếu đầy đủ ba tư lương này thì quyết định được vãng sanh. Cho nên, ba tư lương này quan trọng hơn bất cứ điều gì. Chúng ta cùng xem những khai thị của Tổ sư Đại đức cho chúng ta.

第十八 “Đệ thập bát” (nguyện thứ 18), nguyện thứ 18 trong 48 nguyện, là十念必生願”Thập niệm tất sanh nguyện” (nguyện mười niệm tất vãng sanh), ngữ khí ở đây vô cùng khẳng định, một chút nghi ngờ đều không có, văn nguyện như sau: 我作佛時,十方眾生,聞我名號,至心信樂,所有善根,心心回向,願生我國,乃至十念,若不生者,不取正覺,唯除五逆,誹謗正法 “Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp” (Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, có bao nhiêu thiện căn đều tâm tâm hồi hướng nguyện sanh nước tôi, dù chỉ mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy Chánh Giác, chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp).

Nếu như quý vị nhớ không nổi 48 nguyện, thì quý vị ghi nhớ năm nguyện mà chúng tôi giảng lần này. Nếu ngay cả năm nguyện ấy mà còn nhớ không được, thì hy vọng quý vị nhớ được một nguyện này, ghi nhớ một nguyện này thì cũng có thể thành công. Chư Phật Bồ-tát là người nói lời chân ngữ, lời thật, quý Ngài không phải là người vọng ngữ. Chúng ta phải tin tưởng, nhất định không có hoài nghi thì đúng rồi.

Đây cử ra đoạn tiểu chú này, 日淨宗古德較量諸經 “Nhật Tịnh-tông cổ đức giảo lượng chư kinh” (Cổ đức Tịnh-tông Nhật Bản phán định các kinh), trong tất cả kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật giảng trong 49 năm, thì bộ kinh nào là chân thật nhất? Đem những bộ kinh so sánh thì chỉ mình Kinh Hoa Nghiêm là chân thật; Đem Kinh Hoa Nghiêm so sánh cùng với bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, thì Kinh Vô Lượng Thọ này mới là chân thật, đem Kinh Hoa Nghiêm để thấp hơn. Điểm này cực kỳ quan trọng.

Chí tâm được giảng là chí thành. Chúng ta xem trở lại phía trước, đoạn phía trước, đọc bắt đầu từ đâu? Từ đoạn thứ hai là tốt. 至心者,至誠之心也,至極之心也 “Chí tâm giả, chí thành chi tâm giả, chí cực chi tâm dã” (Chí tâm là tâm chí thành, tâm đến cùng tột vậy). Tâm đây vô cùng trừu tượng, giảng làm sao cũng không rõ ràng được, đến lúc nào quý vị thấy tâm được rồi, thì chúc mừng quý vị, tại sao vậy? Vì quý vị đã thành Phật, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật rồi. Thông thường, chúng ta chỉ có khái niệm, tức là tâm khởi tác dụng. Tâm có phân biệt, tâm có vọng tưởng, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, đó đều là tác dụng của tâm. Còn tâm là thế nào thì nói không ra được. Tâm thì có khả năng khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước mọi thứ; tâm không có hình tướng, nó không phải là hiện tượng vật chất, mà cũng không phải là hiện tượng tinh thần, nên giảng thế nào, cũng chẳng có cách gì đem làm cho nó rõ ràng cụ thể được. Phật dạy chúng ta, đặc biệt bên Thiền-tông, yêu cầu chúng ta tìm lại được tâm, 若人識得心,大地無寸土 “nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu ai nhận thức được tâm, Đại địa chẳng có tấc đất). Quý vị thấy được Chân rồi. Tâm ấy làm sao có thể thấy được? Chân thành, chân thành đến tột cùng, thì chân tâm hiện tiền. Khởi tâm động niệm của chúng ta là vọng tâm; phân biệt, chấp trước là vọng tâm, những gì quý vị có thể cảm nhận cảm giác được toàn đều là vọng tâm, chứ không phải là chân tâm. Vọng tâm không khởi, thì chân tâm liền hiện tiền. Vì vậy, từ đâu để xem chân tâm? Là từ thiền định. Thiền định tức là nhờ đem vọng tâm buông xuống, nên chân tâm hiện ra, mục đích là như vậy. Vì thế, định đến tột cùng thì hoát nhiên đại ngộ, đó là chân tâm hiện tiền. Tịnh-độ tông có phương pháp đó không? Có, phương pháp thế nào? Là dùng một câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”. Câu Phật hiệu ấy là chân tâm, đem tất cả vọng tưởng tạp niệm bỏ đi, khiến tâm của quý vị chỉ giữ lại một câu Nam Mô A Di Đà Phật, thời gian lâu rồi, thì ý niệm khác đều không có nữa, chỉ còn có một câu A Di Đà Phật này, đó là chân tâm hiện tiền, như vậy thì chúc mừng quý vị, quý vị kiến tánh rồi. Chí tâm này, chúng ta đem đoạn văn đó đọc qua một lần thì liền hiểu được ý nghĩa, là tâm chí thành. Người tu hành như thế nào mới có thể được minh tâm kiến tánh, mới thấy được Phật, thấy Bồ-tát, thấy Thế Giới Cực Lạc? Là chí thành tâm đến tột cùng thì được.

Đây dẫn ra từ sách Kim Quang Minh Kinh Văn Cú: 至心者,徹到心源,盡心實際,故云至心。徹者,徹底。到者,達到 “Chí tâm giả, triệt đáo tâm nguyên, tận tâm thật tế, cố vân chí tâm. Triệt giả, triệt để. Đáo giả, đạt đáo” (Chí tâm là triệt đáo nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm, nên bảo là chí tâm. Triệt là triệt để, đáo là đạt đến), giống như người đi xa trở về nhà, ở bên ngoài long đong không nơi nương tựa, hiện nay có thể về đến nhà xưa, thì vui mừng đến cỡ nào! Cho nên, 心源者,自心之本源 “tâm nguyên giả, tự tâm chi bổn nguyên” (Nguồn tâm là nguồn gốc của tâm mình). Đây là một câu nói trên Tam Tự Kinh, “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”, bổn thiện ở đây tức là nguồn tâm, nguồn tâm xưa nay vốn là thiện. 人之初,性本善 “Tận giả, cùng tận. Thật tế giả, tức bổn kinh trung chân thật chi tế.” (Tận là tận cùng. Thật Tế tức là Chân Thật Tế nói trong Kinh này). Đọc hai đoạn này rồi, chúng ta nghĩ rằng không giả, lời của Phật nói là chân thật. Chân Thật Tế chúng ta phải tin tưởng, nên vui mừng. Về ba loại Thật Tế nói trong Kinh này, loại thứ nhất là Chân Thật Tế, 盡者,窮盡。實際者,即本經中真實之際 “Tín nhạo giả, tín thuận sở văn chi pháp, nhi ái nhạo chi, tức tín tâm hoan hỷ dã” (Tin ưa là tin theo pháp đã được nghe, với sự ưa thích thì lòng tin vui mừng vậy).

善根者,身口意三業之善,固不可拔,又善能生妙果,生餘善 “Thiện căn giả, thân khẩu ý tam nghiệp chi thiện, cố bất khả bạt, hựu thiện năng sanh diệu quả, sanh dư thiện” (Thiện căn là thiện của ba nghiệp thân, khẩu, ý, kiên cố chẳng thể dời đổi. Mà thiện lại có thể sanh ra diệu quả và các điều lành khác), nên xưng là thiện căn. Chúng ta xem tiếp, 心心者,純一之心也,淨念相繼之心也 “Tâm tâm giả, thuần nhất chi tâm dã, tịnh niệm tương tục chi tâm dã” (Tâm tâm là tâm thuần nhất, tâm tịnh niệm liên tục vậy). Người niệm Phật, hay người tham thiền, hoặc người quán tưởng, đều dùng loại tâm ấy. 回向者」,回是回轉的意思,向是趣向,方向、目標,「回轉自身所修功德,而趣向於所期 “Hồi hướng giả, hồi thị hồi chuyển đích ý tứ, hướng thị thú hướng, phương hướng, mục tiêu, hướng chuyển tự thân sở tu công đức, nhi thú hướng ư sở kỳ” (Chữ “Hồi hướng”, thì “hồi” ý nghĩa là xoay chuyển, “hướng” là hướng đến, là phương hướng, là mục tiêu, hồi chuyển công đức mình tu, mà hướng đến điều mình mong mỏi), vậy gọi là hồi hướng, trước tiên đem ý nghĩa của danh từ thuật ngữ làm cho rõ ràng.

Tiếp theo, dẫn ra từ Vãng Sanh Luận để nói, Quyển thượng của Vãng Sanh Luận Chú có giải thích, thế nào là hồi hướng? 回己功德,普施眾生,共見阿彌陀如來,生安樂國 “Hồi kỷ công đức, phổ thí chúng sanh, cộng kiến A Di Đà Như Lai, sanh An Lạc Quốc” (là đem công đức của chính mình thí cho khắp chúng sanh, đều cùng được sanh về cõi An Lạc, gặp A Di Ðà Như Lai). Chúng ta học Phật, thành tựu của chúng ta không chỉ là thành tựu cho chính mình, mà hy vọng sự thành tựu của chúng ta, có thể rộng lớn đến biến pháp giới hư không giới. Thành tựu của tôi phổ thí cho chúng sanh, tôi sanh qua Thế Giới Cực Lạc, tôi mang mọi người đi cùng, chúng ta đều được gặp A Di Đà Phật, đều đến Thế Giới Cực Lạc, đây là ý nghĩa của hai chữ “Hồi hướng” trong nguyện này. 願生我國 “Nguyện sanh ngã quốc” (Nguyện sanh nước tôi), tức là mục đích, mục tiêu của hồi hướng, 願我一切眾生,往生極樂世界也 “Nguyện ngã nhất thiết chúng sanh, vãng sanh Cực Lạc Thế Giới dã” (Nguyện tôi cùng tất cả chúng sanh, đều vãng sanh thế giới Cực Lạc). Chúng ta sáng tối mỗi ngày đều hồi hướng như vậy, thay thế cha mẹ sư trưởng, lịch kiếp oán thân trái chủ, cùng tất cả chúng sanh trong biến pháp giới hư không giới, mà lễ Phật ba lạy, cầu sanh Tịnh-độ. Tôi thay thế tất cả chúng sanh trong biến pháp giới hư không giới làm hồi hướng sau cùng này, đây không phải là tự tư tự lợi, mà đại công vô tư, tôi vãng sanh, mọi người cùng với tôi vãng sanh; Tôi gặp Phật, mọi người đồng với tôi thấy Phật; Tôi thành Phật, mọi người cũng thành Phật với tôi, như vậy thì đúng rồi.

Tiếp theo giảng đến, 十念者,如《觀無量壽佛經》曰:具足十念 “Thập niệm giả, như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh viết: Cụ túc thập niệm” (“Mười niệm” là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: Ðầy đủ mười niệm), mười niệm nói đầy đủ ở đây là niệm Phật mười niệm, niệm mười tiếng Phật hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, đầy đủ mười niệm như vậy, một câu là một niệm, niệm mười câu, nếu mỗi ngày quý vị không rảnh rỗi để niệm Phật, thì chỉ cần quý vị niệm mười niệm, sáng sớm niệm mười câu, tối niệm mười câu, cả đời không gián đoạn, cũng có thể vãng sanh. Trong sách Tiên Chú nói: 十遍稱名也 “Thập biến xưng danh dã” (Xưng danh mười lần). Đại sư Vọng Tây nói: 經十念頃,專稱佛名,為十念 “Kinh thập niệm khoảnh, chuyên xưng Phật danh, vi thập niệm” (Trải qua khoảng thời gian mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật, tức là mười niệm), nói được rất rõ ràng, mười niệm đây tức là xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. 經此六字頃 “Kinh thử lục tự khoảnh” (trải qua khoảng thời gian sáu chữ này), đây là một niệm. Do đó ý nghĩa thập niệm là tương đồng trên các kinh luận. 乃至十念 “Nãi chí thập niệm” (dù chỉ mười niệm), đó là稱念名號,下至僅得十念者,亦得往生 “xưng niệm danh hiệu, hạ chí cận đắc thập niệm giả, diệc đắc vãng sanh” (xưng niệm danh hiệu, thấp nhất chỉ có mười niệm, cũng được vãng sanh). Câu này quan trọng, mười câu thì như thế nào? Mười câu thì được vãng sanh, cho nên nói dù chỉ. 若能多念,則多多益善矣 “Nhược năng đa niệm, tắc đa đa ích thiện hỹ” (nếu có thể niệm nhiều hơn, thì càng nhiều lợi ích tốt lành vậy), niệm càng nhiều càng tốt. Có người một ngày niệm mười vạn tiếng, chúng ta không thể niệm được nhiều như vậy, mỗi ngày chúng ta niệm mười niệm, sáng sớm niệm mười niệm, tối niệm mười niệm, mỗi ngày đều không thiếu, dưỡng thành thói quen rồi, theo thời gian thì họ sẽ niệm Phật thôi. Sáng sớm thức dậy, tỉnh dậy, niệm mười tiếng A Di Đà Phật, tối trước khi đi ngủ, niệm mười tiếng A Di Đà Phật, như vậy được rồi.

Cuối văn nguyện này có một câu, 唯除五逆,誹謗正法 “duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp” (chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp). Tội Ngũ Nghịch cực nặng, không có tội gì nặng hơn, nên gọi là Ngũ Nghịch tội. Đó là: giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng. Trên kinh nói tội nghiệp của năm loại này nghiêm trọng nhất, tạo tội nghiệp đó đều đọa địa ngục Vô Gián. 罪惡極逆於理,故謂之逆。是為感無間地獄苦果之惡業,故又名無間業。犯此逆者 “Tội ác cực nghịch ư lý, cố vị chi nghịch. Thị vi cảm Vô Gián địa ngục khổ quả chi ác nghiệp, cố hựu danh Vô Gián nghiệp. Phạm thử nghịch giả” (Tội ác vô cùng trái nghịch với Đạo lý, nên gọi là Nghịch. Do cảm lấy quả khổ ác nghiệp trong địa ngục Vô Gián, nên còn gọi là Nghiệp Vô Gián. Người phạm tội nghịch này), lúc thân mạng hết rồi, 必墮無間地獄”tất đọa Vô Gián địa ngục” (tất phải đọa địa ngục Vô Gián). Thọ mạng của địa ngục Vô Gián dài bao lâu? Là một đại kiếp. 一大劫中,受無間苦 “Nhất đại kiếp trung, thọ vô gián khổ” (Trong một đại kiếp, chịu khổ không ngừng), nên gọi là địa ngục Vô Gián, khổ thật sự không nói được.

Trong Quán Kinh Sớ, Đại sư Thiện Đạo cũng có giải thích, cho rằng Ngũ Nghịch báng pháp không được vãng sanh, ý nghĩa là: do Phật muốn ngăn ngừa điều ác nên phương tiện nói như thế, sự thật không phải vậy. Vì sao? Vì Phật từ bi đến tột cùng, trí huệ đức hạnh viên mãn, chẳng lẽ đạo lý đây thấy chết mà lại không cứu sao? Cách nhìn này, ý tưởng rất tốt, rất khó được. Trong 48 nguyện, ngoại trừ báng pháp, Ngũ Nghịch ra, là vì chướng ngại của họ quá lớn, 眾生若造,直入阿鼻 “chúng sanh nhược tạo, trực nhập A Tỳ” (chúng sanh nếu tạo, vào thẳng A Tỳ), tức là địa ngục A Tỳ, 歷劫周慞,無由可出 “lịch kiếp chu chương, vô do khả xuất” (trải qua sự kinh hoàng bao kiếp, không do đâu mà có thể ra được), không thể ra ngoài được, 但如來恐其造斯二過,方便止言,不得往生,亦不是不攝也 “đãn Như Lai khủng kỳ tạo tu nhị quá, phương tiện chỉ ngôn, bất đắc vãng sanh, diệc bất thị bất nhiếp dã” (Ðức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội ấy, nên mới nói lời ngăn ngừa, chẳng được vãng sanh, tuy nhiên không phải là không nhiếp thủ vậy). Nếu lỡ tạo thật rồi thì sao? Phật vẫn độ quý vị, vẫn cứu quý vị. Nhưng dù được vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, hoa sen trong Ao Thất Bảo chưa nở, hoa khép, tức là trải qua nhiều kiếp, hoa chưa nở. Phía trước nói một đại kiếp hoa mới nở, không như vãng sanh thông thường, sanh đến Thế Giới Cực Lạc thì hoa nở gặp Phật. Là ý nghĩa như vậy, không phải Phật không độ, không cứu quý vị, mà bởi vì nghiệp chướng của quý vị quá nặng, khiến chướng ngại hoa trong Ao Thất Bảo ở Thế Giới Cực Lạc của chính quý vị chưa có thể nở được. Trong đây nói có ba loại chướng, thứ nhất là不得見佛 “bất đắc kiến Phật” (không được gặp Phật), không gặp được Bồ-tát, không gặp được những vị A-la-hán. Thứ hai là 不得聽聞正法 “bất đắc thính văn chánh pháp” (không được nghe chánh pháp). Thứ ba là 不得歷事供養 “bất đắc lịch sự cúng dường” (không được trải qua các sự cúng dường). Ngoại trừ ba sự việc này, họ không chịu sự thống khổ nào khác, vậy thì thật ra cũng không tệ rồi.

Sách Hợp Tán cũng nói: 言唯除五逆誹謗正法,是乃就未造之機,且抑止之而已 “Ngôn duy trừ Ngũ Nghịch phỉ báng chánh pháp, thị nãi tựu vị tạo chi cơ, thả ức chỉ chi nhi dĩ” (Nói chỉ trừ Ngũ Nghịch phỉ báng chánh pháp, là đối với căn cơ chưa tạo nghiệp, để ngăn ngừa mà thôi). Nếu đã lỡ phạm rồi, sau đó ăn năn, thì A Di Đà Phật vẫn nhiếp thọ quý vị, một người cũng không bỏ! Ý nghĩa đây là: 所言除者,實為止惡之意,使未造惡者,不敢造也 “Sở ngôn trừ giả, thật vi chỉ ác chi ý, sử vị tạo ác giả, bất cảm tạo dã” (Sở dĩ nói là trừ, nhưng thật sự vì để ngăn điều ác ấy, để kẻ chưa tạo ác thì không dám tạo vậy), ý nghĩa là như vậy. 若是已造者,但能迴心,懺悔念佛,則仍舊攝取,無有遺漏也。可見彌陀大願,攝機無盡 “Nhược thị dĩ tạo giả, đãn năng hồi tâm, sám hối niệm Phật, tắc nhưng cựu nhiếp thủ, vô hữu di lậu dã. Khả kiến Di Đà đại nguyện, nhiếp cơ vô tận” (Nếu kẻ đã trót tạo, nhưng có thể hồi tâm, sám hối niệm Phật, thì vẫn nhiếp thủ như cũ, chẳng bỏ sót vậy. Có thể thấy đại nguyện Di Ðà nhiếp thủ vô tận căn cơ). Lời nói này rất hay, chúng ta cần ghi nhớ, gặp được pháp môn này thì người người đều được độ, không có một ai là không thể vãng sanh, những Kinh, Luận và Chú giải này đã làm chứng minh cho chúng ta.

又善導大師云:弘誓多門四十八,遍標念佛最為親。人能念佛佛還念,專心想佛佛知人。

“Hựu Thiện Đạo Đại sư vân:
Hoằng thệ đa môn tứ thập bát,
Biến tiêu niệm Phật tối vi thân.
Nhân năng niệm Phật Phật hoàn niệm,
Chuyên tâm tưởng Phật Phật tri nhân.”

(Đại sư Thiện Ðạo lại nói:
Hoằng thệ nhiều cửa bốn tám nguyện,
Đều khen niệm Phật đường tắt nhất.
Ai mà niệm Phật, Phật niệm lại,
Chuyên tâm nhớ Phật, Phật nhớ ta.)

Rất thân thiết, không có gì thân thiết hơn nữa rồi, Phật thật thân thiết với người. Chúng ta có muốn thân gần Ngài không? Huống chi trong đây lại nói:

唯有念佛蒙光攝,當知本願最為強。

“Duy hữu niệm Phật mông quang nhiếp,
Đương tri bổn nguyện tối vi cường.”

(Chỉ có niệm Phật được quang nhiếp,
Nên biết bổn nguyện thù thắng nhất.)

Tín, nguyện, niệm Phật, hy vọng mọi người ghi nhớ chắc chắn.

善導大師約四十八願為真實五願。若論至約 “Thiện Đạo Đại sư ước tứ thập bát nguyện vi chân thật ngũ nguyện. Nhược luận chí ước.” (Đại sư Thiện Ðạo rút gọn 48 nguyện thành năm nguyện chân thật. Nếu tiếp tục rút gọn hết cỡ), tức là lại đem đơn giản hóa, đơn giản đi, lấy một nguyện có thể đại biểu cho 48 nguyện, thì đó là nguyện thứ 18. Nguyện 18 bao chứa tất cả 48 nguyện ở trong đó rồi. Đại sư Thiện Ðạo là A Di Đà Phật tái lai, chứ không phải là Đại đức thông thường, chúng ta không thể không biết điều này. Sách Chân Giải của Nhật Bản nói được rất hay: 四十八願雖廣,悉歸第十八願 “Tứ thập bát nguyện tuy quảng, tất quy đệ thập bát nguyện” (Bốn mươi tám nguyện tuy rộng, nhưng chỉ quy về nguyện mười tám), rất hay! 又云:謂由此願故,使眾生生無三惡趣之土,不更惡趣 “Hựu vân: vị do thử nguyện cố, sử chúng sanh sanh vô tam ác thú chi độ, bất cánh ác thú” (Lại nói: Do bởi nguyện này nên chúng sanh được sanh về cõi không có ba đường ác, sẽ chẳng đọa vào đường ác nữa), không đọa lạc vào trong ba ác đạo nữa! 具相好,現神通,而得滅度,入光壽海故。是以此願特為最勝矣 “Cụ tướng hảo, hiện thần thông, nhi đắc diệt độ, nhập quang thọ hải cố. Thị dĩ thử nguyện đặc vi tối thắng hỹ” (Đủ tướng hảo, có sẵn thần thông, mà được diệt độ, bởi vì nhập vào biển quang thọ. Đúng là nguyện này đặc biệt tối thắng vậy). Thật là không có gì thù thắng hơn.

Trong sách Tiên Chú lại nói: 故知四十八願之中,以此 “Cố tri tứ thập bát nguyện chi trung, dĩ thử” (Nên biết rằng trong 48 nguyện, thì nguyện này), tức là nguyện thứ 18, lấy nguyện thứ 18, 念佛往生之願,而為本願中之王也 “niệm Phật vãng sanh chi nguyện, nhi vi bổn nguyện trung chi vương dã” (nguyện niệm Phật vãng sanh này, mà làm vua trong các bổn nguyện vậy). Nguyện thứ 18, có thể bao hàm đầy đủ 48 nguyện, nên là vua của 48 nguyện, đủ tướng hảo, có sẵn thần thông, mà được diệt độ, nhập vào biển vô lượng quang, vô lượng thọ. Cho nên, đây là nguyện đặc biệt thù thắng. Cuối cùng trong sách Tiên Chú nói, nên biết rằng trong 48 nguyện, lấy nguyện niệm Phật vãng sanh này, mà làm vua trong các bổn nguyện vậy, nguyện thứ 18 là vua của 48 nguyện. 此願顯彌陀之究竟方便,一乘願海,六字洪名,不可思議功德。以名號即實德,聲字皆實相故 “Thử nguyện hiển Di Đà chi cứu cánh phương tiện, nhất thừa nguyện hải, lục tự hồng danh, bất khả tư nghì công đức. Dĩ danh hiệu tức Thật-đức, thanh tự giai Thật-tướng cố” (Nguyện này thể hiện phương tiện cứu cánh của Di Đà, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Do danh hiệu tức là Thật-đức nên âm thanh, danh tự đều là Thật-tướng vậy). Đó là hai câu nói cuối cùng trong đây, đem đạo lý sau cùng thế nào nói ra cho chúng ta rồi, danh hiệu tức là Thật-đức, đức lớn của Tự-tánh vốn thật sự đầy đủ viên mãn; âm thanh, danh tự của sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật chính là Thật-tướng. Không phải hoài nghi, đấy chính là Thật-tướng, không có đạo lý không thành tựu! Vì vậy, chúng ta ở đây niệm Phật, Phật ở Thế Giới Cực Lạc biết chúng ta, quyết định sẽ không bỏ rơi chúng ta. Nên trong đời này, chúng ta có thể gặp được pháp môn này, gặp được bộ chú giải đây, gặp được những Tổ sư Đại đức đem những tin tức báo cáo cho chúng ta, thì chúng ta được lợi ích quá lớn rồi! Đời này, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa, quyết định được vãng sanh Tịnh-độ, vậy thì đúng rồi.

Thời gian hôm nay hết rồi, chúng ta học tập đến đây thôi.

File PDF: Niệm Phật Vãng Sanh – Chúng Ta Có Thể Làm Được Hay Không?

Bài viết liên quan

Niệm Phật Tông Yếu PDF – Pháp Nhiên Thượng Nhân

Thiện Quang

Kinh A Di Đà – Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch

Thiện Quang

Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện PDF – HT Thích Trí Tịnh dịch

Thiện Quang

Tịnh Nghiệp Tam Phước PDF – HT Tịnh Không

Thiện Quang

Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật PDF – HT Thích Trí Tịnh dịch

Thiện Quang

Niệm Phật Thành Phật PDF – Pháp Sư Tịnh Không giảng

Thiện Quang

Hòa Thượng Hải Hiền – Sách file PDF

Thiện Quang

Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa trọn bộ 600 tập

Thiện Quang

Hiện tiền tu học như thế nào mới được tự tại vãng sanh?

Thiện Quang
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận