Phật pháp là giáo dục, không phải là tôn giáo
Phật pháp là giáo dục, không phải là tôn giáo, chúng ta cần làm rõ điểm này, bất kỳ một chủng tộc hay bất kỳ một tôn giáo nào cũng đều nên tu học Phật pháp.
Hôm nay có ba mươi tám bạn đồng tu của Tịnh Tông Học Hội Đài Bắc đến Singapore tham học, tôi vô cùng cảm ân. Trong đó có một số bạn đồng tu cũ đến từ Thư viện của chúng tôi. Kể từ sau khi Hàn Quán Trưởng vãng sanh, tôi yêu cầu tứ chúng đồng tu của Thư viện duy trì và bảo vệ mô hình hoạt động này của Hàn Quán Trưởng khi còn tại thế ít nhất ba năm, không được thay đổi. Điều này là chúng tôi đối với ân huệ ba mươi năm hộ trì của Hàn Quán Trưởng, nhưng trên thực tế chúng tôi chỉ làm được một năm.
Sau khi Hàn Quán Trưởng vãng sanh tròn một năm thì Thư viện xảy ra biến cố, biến cố đó quá lớn, hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của tôi. Suy nghĩ ban đầu là sau khi Hàn Quán Trưởng vãng sanh thì việc hoằng pháp do một mình tôi gánh vác.
Khi đó chúng tôi có bốn đạo tràng trọng điểm, nên tôi tự mình xắp xếp là một năm ở Đài Loan ba tháng, ở Mỹ ba tháng, ở Singapore ba tháng, ở Úc ba tháng, tôi xắp xếp thời gian như vậy.
Sau khi xảy ra biến cố ở Thư viện thì chúng tôi không thể không dời đi, hơn nữa toàn bộ đều lần lượt dời đi cả. Đây là điều tôi có nghĩ cũng không thể nghĩ đến được, cũng là điều mà Hàn Quán Trưởng không thể nghĩ đến.
Hàn Quán Trưởng không những hy vọng đạo tràng này vĩnh viễn làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, hơn nữa còn nhiều lần nói với tôi là ngay cả đạo tràng ở San Jose bên Mỹ cũng phải tiếp tục duy trì dài lâu.
Tất cả những điều này tôi nghĩ đều là sự sắp đặt của Phật Bồ-tát, cho nên chúng tôi đều mang một tâm thái cảm ân đối với tất cả mọi người, nhất định không có một lời oán trách.
Ở Singapore có sự hộ trì nhiệt tình của cư sĩ Lý Mộc Nguyên hộ trì toàn lực. Ở nơi đây không những chúng tôi xây dựng lên đạo phong và học phong của Phật pháp mà còn đẩy mạnh đến toàn xã hội, đến các tôn giáo, đến các chủng tộc, có lẽ chính vì sứ mạng này khiến chúng tôi không thể không rời khỏi đạo tràng cũ thân thương này.
Chúng tôi theo đuổi sự nghiệp lớn, hòa hợp với các chủng tộc, đoàn kết tất cả các tôn giáo, chúng tôi đã thực hiện được công việc này tại Singapore và Úc rồi. Việc này ở Úc do chính phủ chủ động phát động thực hiện. Khi chúng tôi qua bên đó, họ vô cùng hoan nghênh, hầu như khi có những hoạt động lớn của các chủng tộc tôn giáo thì họ nhất định mời tôi tham dự, chúng tôi cũng nhất định đến tham gia, giúp đỡ họ phát triển. Cho nên sang năm chúng tôi có kế hoạch đi thăm các quần thể dân tộc khác nhau ở Úc, giống như tôi đi thăm hỏi những tôn giáo khác nhau ở Singapore, chúng ta cần mở rộng phát triển lý niệm của Phật pháp.
Thời xưa có không ít học giả và lãnh tụ của Ấn Độ giáo đều tu học Phật pháp Đại thừa. Các Ngài còn thành kính hơn, chăm chỉ hơn, y giáo phụng hành hơn so với những Pháp sư xuất gia chúng ta. Các Ngài là Bà-la-môn giáo, là Ấn Độ giáo. Những lời các Ngài nói ra là chân lý tối cao của nhà Phật, Phật pháp Đại thừa là chân lý, phản đối hư ngụy, hư ngụy chính là giả tạo. Cho nên bản thân các Ngài không rời bỏ vị trí của mình, không từ bỏ thân phận của mình mà vẫn là trưởng giả của Bà-la-môn giáo (Ấn Độ giáo), là lãnh tụ tôn giáo của họ, thế nhưng các Ngài vô cùng chăm chỉ học Phật. Điều này là tấm gương tốt nhất cho việc thúc đẩy hòa hợp giữa các tôn giáo của chúng ta ngày nay.
Thế nên Phật pháp là giáo dục, không phải là tôn giáo, chúng ta cần làm rõ điểm này, bất kỳ một chủng tộc hay bất kỳ một tôn giáo nào cũng đều nên tu học Phật pháp. Phật pháp là dạy người khai trí huệ, hiểu rõ sự và lý. Tôi thường nói Phật dạy người có ba mục tiêu:
Điều thứ nhất là dạy chúng ta làm thế nào chung sống giữa người với người, ngày nay những tai nạn do con người gây ra từ đâu mà có vậy? Là do giữa người với người không hiểu được đạo chung sống nên tạo thành nhân họa.
Mục tiêu thứ hai của việc dạy học là dạy người làm thế nào chung sống với đại tự nhiên, không hiểu rõ đạo lý này nên có thiên tai, thiên tai nhân họa là do chúng ta không biết cách làm người, không biết cách chung sống với hết thảy vạn vật nên tạo thành tai nạn.
Hiểu được đạo lý làm người, bạn đi đến đâu cũng được mọi người tôn trọng, được mọi người hoan nghênh, nhân họa không còn nữa. Hiểu được cách chung sống với đại tự nhiên, nhất định sẽ không phá hoại hoàn cảnh sinh thái tự nhiên thì thiên tai không còn nữa.
Đức Phật dạy chúng ta điều thứ ba là con người làm thế nào để chung sống với thiên địa quỷ thần, câu này nói rõ hơn một chút là con người làm thế nào để chung sống với các tôn giáo khác nhau. Phật dạy chúng ta đối với bất kỳ tôn giáo nào hay Thần minh mà họ đang sùng bái, chúng ta cần tôn kính Thần Thánh, cần bình đẳng tôn kính. Phổ Hiền Bồ-tát dạy chúng ta: “Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, quảng tu cúng dường” nên chúng ta cần thực hiện một cách bình đẳng.
Làm tốt ba điều này rồi thì thiên hạ thái bình, xã hội an định, người người đều hưởng hạnh phúc. Đây là giáo huấn của Phật-đà, cho nên trong Phật giáo không có giới hạn, không phân biệt quốc gia, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, không phân biệt bên này với bên kia mà tôn trọng lẫn nhau, tương thân tương ái, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau. Đây chính là Phật pháp.
Đối với sự tu trì của mỗi cá nhân mà nói thì Phật cũng có ba khoa mục dạy chúng ta. Phật dạy chúng ta điều thứ nhất là “Đoạn ác tu thiện”. Chúng ta cần phải hiểu được thế nào là ác, thế nào là thiện, trước tiên cần nhận thức rõ ràng, phân biệt rõ ràng. Phật nói tiêu chuẩn của thiện là phàm lợi ích cho chúng sanh thì chính là thiện, tiêu chuẩn của ác là phàm tự tư tự lợi thì chính là ác, cho nên phải diệt trừ tận gốc tự tư tự lợi, hết thảy cách nghĩ cách làm đều vì xã hội đại chúng, vì hết thảy chúng sanh. Công đức của bạn lớn hay nhỏ thì cần xem phương diện ảnh hưởng của bạn. Phương diện ảnh hưởng lớn thì công đức của bạn lớn, phương diện ảnh hưởng nhỏ thì công đức của bạn nhỏ. Thời gian ảnh hưởng dài lâu thì công đức lớn, thời gian ảnh hưởng ngắn thì công đức nhỏ, nếu ảnh hưởng đến nhân tâm xã hội sâu sắc thì công đức lớn, còn ảnh hưởng nông cạn thì công đức nhỏ. Điều này hoàn toàn xem phương diện ảnh hưởng của việc khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành vi của bạn, chúng ta cần phải hiểu được điều đó. Ảnh hưởng của việc ác thì tội nghiệp nặng, ảnh hưởng của việc thiện thì phước đức sẽ lớn, cho nên cát hung họa phước đều ở khởi tâm động niệm của chúng ta, chúng ta không thể không biết.
Phật dạy chúng ta điều thứ hai là “Phá mê khai ngộ”, điều này là mấu chốt giáo học của Phật pháp, là trọng tâm của việc dạy học, nhất định phải nhận thức rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sanh, sửa đổi tư tưởng kiến giải hành vi sai lầm của chúng ta. Phật trong kinh luận đã nói rất nhiều, cổ Thánh tiên Hiền chỉ dựa vào Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, được! Một bộ Kinh này là đủ. Sáu trăm quyển Đại Bát Nhã tất cả chi tiết được nói đến đều không nằm ngoài phạm vi của Kinh Kim Cang. Thế nên người Trung Quốc thích đọc Kinh Kim Cang, văn tự của Kinh Kim Cang không nhiều, chỉ có năm ngàn chữ, đọc từ đầu đến cuối một lượt hết mười lăm phút, cần đọc thuộc, cần nhớ kỹ, thường xuyên đem giáo huấn của kinh điển ra để phản tỉnh. Phản tỉnh chính là quán chiếu mà nhà Phật chúng ta nói đến. Chúng ta đối chiếu khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành vi với những giáo huấn trong kinh. Nếu tương ưng thì bạn là chánh tri chánh kiến, bạn là hạnh Bồ-tát, nếu trái ngược thì chúng ta sai rồi, sai rồi thì nhanh chóng sửa đổi lại. Phật nói với chúng ta “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, cho nên đối với hết thảy việc hết thảy vật trên thế gian không nên cho là thật. Phật dạy chúng ta tùy duyên nhất định đúng. Tùy duyên là hạnh của Phật Bồ-tát, phan duyên là hạnh của chúng sanh. Chư vị nhất định phải hiểu được, phan duyên là tạo nghiệp, là tạo tội, tùy duyên là công đức vô lượng vô biên. Cho nên chư Phật Bồ-tát tùy duyên thị hiện tại thế gian, chúng ta xem Thiện Tài Đồng Tử năm mươi ba tham vấn ở phần cuối phẩm “Nhập pháp giới” của Kinh Hoa Nghiêm, bạn xem cuộc sống của các Ngài vô cùng tự tại, vô cùng hạnh phúc, vô cùng mỹ mãn, là nguyên nhân gì? Đó là tùy duyên chứ không phan duyên. Phan duyên là gì? Là tâm của tôi muốn thế này thế kia, thế thì hỏng rồi. Khiến cho mọi người tùy thuận theo tôi, điều này sai rồi, mà tôi phải tùy thuận đại chúng, trong tùy thuận nếu có thể lìa tướng thì thành tựu công đức không thể nghĩ bàn. Lìa tướng là gì? Là nhất định không để vào trong tâm, vĩnh viễn giữ gìn tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác.
Dụng tâm như thế nào? Trong hết thảy kinh Đại thừa Phật dạy chúng ta dụng tâm giống như tấm gương, chúng ta soi gương hằng ngày, khi soi gương trong gương hiện tướng của chúng ta, khi chúng ta không soi gương nữa thì trong gương sạch sẽ không còn cái tướng đó, nhất định không bị nhiễm, cho nên cần dụng tâm như gương. Dụng tâm không được giống như phim của máy ảnh, chụp một lần thì lưu lại ở bên trong, điều này gay go rồi. Rơi vào bên trong thì có đúng sai, rơi vào bên trong thì có được mất, có lợi hại, điều này sẽ sản sinh xung đột, có xung đột thì tạo nghiệp. Đây là mê hoặc điên đảo, không biết đó là hư vọng. Cho nên chúng ta đối với hết thảy người, hết thảy việc, hết thảy vật thậm chí là người thân đến cỡ nào đi nữa cũng là như vậy, không những không lưu lại ấn tượng đối với những sự việc, hoàn cảnh đã qua mà khi trực diện đối mặt với chúng cũng không lưu lại hình ảnh. Các bạn nghĩ xem khi chúng ta soi gương, trong gương hiện tướng của chúng ta, tấm gương có lưu lại hình ảnh chúng ta không? Không có. Gương soi rất rõ ràng nhưng gương thật sự không lưu lại hình ảnh. Dụng tâm như vậy thì người này chính là Phật, là Bồ-tát, người này chính là người triệt để giác ngộ. Cho nên người dụng tâm như gương chính là [dùng] chân tâm, khi họ đối đãi với hết thảy người, hết thảy việc, hết thảy vật thì chân tâm lưu lộ.
Tình yêu thương rộng lớn trong chân tâm chính là từ bi, bạn xem hết thảy tôn giáo đều là Thần ái thế nhân, Thượng Đế ái thế nhân, Phật từ bi, Bồ-tát từ bi, từ bi chính là ái. Tổng hợp tất cả những giáo huấn của hết thảy tôn giáo, lời nói của những người sáng lập tôn giáo, tổng quy kết lại chính là “Ái tâm chân thành”. Bồ-tát đạo thực hiện tại thế gian là thực hiện ở ái tâm chân thành. Người thế gian không hiểu được ái, người thế gian chỉ hiểu tình chứ không có ái, chấp trước trên tình, mê trên tình, cho nên ngày tháng của họ sống rất đau khổ, nếu họ hiểu được ái thì cuộc sống của họ sẽ rất tự tại, rất hạnh phúc. Trong ái không có phân biệt, không có chấp trước, không có vọng tưởng nhưng trong tình thì có, trong tình có vọng tưởng phân biệt chấp trước, vừa nhìn liền biết đó là lục đạo phàm phu, chúng sanh của tam ác đạo.
Người xa lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sự từ bi yêu thương này chúng ta thấy đó là Thánh nhân, không phải người phàm. Lòng từ bi của Ngài, tình yêu thương của Ngài là chân thật, là từ trong tự tánh lưu xuất ra chứ không phải sanh ra từ trong tình thức, cho nên Phật dạy chúng ta “chuyển mê thành ngộ” cần chuyển từ trên căn bản. Chuyển tình thức thành trí huệ, trong trí huệ không có vọng tưởng phân biệt chấp trước, trong trí huệ không có tình, tình là gì? Tình là trí, khi mê gọi là tình, khi giác ngộ gọi là trí. Chúng ta thường nghe nhà Phật nói “Phiền não tức Bồ-đề”, phiền não là tình. Khi mê thì Bồ-đề biến thành phiền não, biến thành tình chấp, khi giác ngộ thì phiền não biến thành Bồ-đề, chuyển đổi mà thôi. Không phải phiền não không còn nữa, phiền não không còn nữa thì Bồ-đề cũng không còn, mà là chuyển đổi rồi. Cho nên chuyển đổi từ trên căn bản, chuyển đổi tình thức thành trí huệ bạn liền siêu phàm nhập Thánh, điều này chính là đạt đến mục tiêu giáo học cao nhất của Phật pháp.
Thần ái thế nhân, Phật từ bi đối với tất cả, tâm từ ái đối với tất cả là bình đẳng, nhất định không có bên trọng bên khinh, mà là bình đẳng. Trong bình đẳng tại sao có người hình như được các Ngài yêu thương hơn một chút, có người lại có khoảng cách rất xa, điều này trên sự tướng quả thật là có. Không phải là không bình đẳng mà vì tình chấp của bạn quá nặng, nếu có thêm tình yêu thương của Phật dành cho bạn thì sự chấp trước của bạn càng nặng hơn như vậy sẽ càng đáng sợ, cho nên phải duy trì khoảng cách, càng xa càng tốt. Nếu bạn không có tình chấp thì cái phân biệt này liền không còn nữa, cho nên người có tình chấp càng nặng thì Phật Bồ-tát sẽ giữ khoảng cách xa đối với họ, người có tình chấp càng nhẹ thì Phật Bồ-tát sẽ ở gần, vì sao vậy? Vì không chướng ngại.
Chúng ta không khó để hiểu đạo lý này, bạn thấy chúng ta xem chuyện tình ái nam nữ trên báo chí tin tức, đôi bên đều chấp trước đến cuối cùng biến thành oan gia, biến thành đối đầu, biến thành oan oan tương báo đời đời kiếp kiếp. Điều này sai rồi, hoàn toàn sai rồi. Oán thù từ đâu mà có vậy? Là có từ khi bắt đầu ân ái, từ ân ái biến thành thù hận, chấp mê mà không ngộ. Cho nên chư Phật Bồ-tát có đại trí huệ, các Ngài hiểu rất rõ, người có tình chấp nặng thì nhất định phải giữ khoảng cách xa với họ, không phải các Ngài không có tâm từ bi, không phải không có ái tâm mà đó chính là tâm yêu thương chân thật, không để cho bạn gây ra lỗi lầm. Đây là thật sự yêu thương. Cho nên chúng ta thể hội sâu sắc giáo huấn của Phật Bồ-tát, ân đức của Phật Bồ-tát, chúng ta học tập từ chỗ này, từ chỗ này đạt được trí huệ, đạt được an lạc, đạt được hạnh phúc, đạt được mỹ mãn.
Trước đây tôi được thân cận với Chương Gia Đại sư, tôi niệm niệm không quên ân đức của Thầy. Tôi giảng kinh dạy học ở bất kỳ đạo tràng nơi đâu đều treo hình ảnh của Thầy, giống như Thầy đang ở cùng với tôi vậy. Chương Gia Đại sư nói với tôi: “Thật sự phát tâm vì Phật pháp, vì chúng sanh thì Phật Bồ-tát sẽ sắp xếp cuộc đời này của bạn, bạn không cần phải lo lắng một chút gì cả.” Tôi tin tưởng lời nói của Thầy, tín thọ phụng hành, cho nên cuộc đời này của tôi gặp phải thuận cảnh tôi rất thích, gặp phải nghịch cảnh tôi cũng rất thích, vì sao vậy? Là vì Phật Bồ-tát sắp xếp cho tôi, là Phật Bồ-tát muốn tôi làm một công việc gì đó, tôi liền nỗ lực chăm chỉ đi làm, để không phụ lòng sự giáo huấn của Thầy, tôn sư trọng đạo. Các lão sư của tôi đều là người Trung Quốc, cho nên ở quê hương của các Thầy ở Trung Quốc, như quê hương của tiên sinh Phương Đông Mỹ, tôi xây dựng ở đó một phòng dạy học vi tính có tên là “Phòng dạy học vi tính Đông Mỹ” để kỷ niệm tiên sinh Phương Đông Mỹ. Lý lão sư là người Tế Nam tỉnh Sơn Đông, chúng tôi xây một nhà kỷ niệm Thầy tại trường đại học Sơn Đông. Chương Gia Đại sư là người Nội Mông Cổ, chúng ta hiện nay đang trao đổi với Đại học Nội Mông, hy vọng trong trường Đại học Nội Mông xây dựng một nhà kỷ niệm Chương Gia Đại Sư. Chúng ta cần báo ân, báo ân huệ của Thầy, cần dạy bảo thế hệ tiếp theo không được phản thầy nghịch đạo, niệm niệm không quên ân đức của lão sư. Hàn Quán Trưởng hộ trì cho tôi ba mươi năm, thành tựu của chúng tôi hôm nay là nhờ vào sự hộ trì của bà, cho nên chúng tôi treo hình ảnh của bà ở phía đối diện với tôi. Chúng tôi dạy học giảng kinh thì bà đều đang lắng nghe, bà quả thật đang ở tại đạo tràng này của chúng ta, có rất nhiều người đã nhìn thấy đến nói với tôi, Quán Trưởng Hàn thường xuyên hiện diện ở đây. Năm ngoái khi kỷ niệm tròn hai năm ngày mất, có người nhìn thấy Quán Trưởng cùng với mấy vị tỳ kheo ni ngồi hàng đầu tiên nghe pháp, có hai, ba bạn đồng học nhìn thấy đến nói với tôi, bà vẫn hộ trì đạo tràng này chưa từng rời xa chúng ta, vẫn âm thầm phù hộ chúng ta. Đạo tràng này của chúng ta là đạo tràng chánh pháp, hoàn toàn tuân theo giáo huấn của Phật-đà và Tổ sư Đại đức, lấy chánh pháp để giác ngộ hết thảy chúng sanh.
Mục đích đêm liên hoan ấm áp năm nay của chúng ta chính là “Chúng sanh vô biên thệ nguyền độ”. Chúng ta đem Phật pháp Đại thừa giới thiệu đến những dân tộc khác, đến những tôn giáo khác không ai là không hoan hỉ. Nếu cơ duyên thành thục rồi thì chúng ta thật sự sẽ tiếp nhận khu vực Đường Thành này, trong tương lai là nơi hoạt động của chín tôn giáo, tất cả chúng ta đều sinh hoạt cùng nhau, sẽ vô cùng mật thiết, chân thật nhìn thấy sự đại đoàn kết của tôn giáo, sự đại hòa hợp của chủng tộc. Như vậy Singapore sẽ là một điểm trên toàn thế giới, điểm này rất quan trọng. Sự hòa nhập của chủng tộc tôn giáo bắt đầu thai nghén từ điểm này mà ra, hy vọng dần dần sẽ mở rộng ảnh hưởng đến toàn bộ Đông Nam Á, ảnh hưởng đến toàn thế giới, dần dần sẽ mở rộng theo mô hình này. Xã hội an định, thế giới hòa bình, tiêu tai miễn nạn, cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn thật sự có thể thực hiện được. Cho nên trong vô vàn đau khổ dày vò, chúng tôi đặc biệt đề xướng sống trong thế giới cảm ân. Bất luận người khác dùng phương thức gì đối với chúng ta, chúng ta đều cảm ân. Chúng ta thật sự phản tỉnh, nếu là lỗi lầm thì “có thì sửa, không thì khích lệ”, đừng để phạm, chúng ta đối với bất kỳ người nào đều không xem là kẻ thù, đều không xem thường, chúng ta đều tôn trọng, đều cảm kích.
Trích đoạn trong:
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 89