Trước khi chúng ta thảo luận đến phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp, thì trước tiên phải có sự nhận thức chuẩn xác đối với Phật pháp.
Xin chào Hội trưởng, các vị pháp sư, các vị đại đức đồng tu!
Hôm nay chúng ta có được nhân duyên thù thắng đến như vậy, Học Hội Tịnh Tông Liên Hoa bố trí một hội trường trang nghiêm long trọng. Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ. Trước khi chúng ta thảo luận đến vấn đề này, thì trước tiên phải có sự nhận thức chuẩn xác đối với Phật pháp. Sau đó chúng ta mới có thể xây dựng tín tâm, nguyện tâm để đạt tới mục tiêu của sự tu học. Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật sáng lập ra ở miền bắc Ấn Độ từ 3000 năm trước. Sau khi Phật diệt độ khoảng 1000 năm mới chính thức truyền đến Trung Quốc, Phật pháp truyền vào Trung Quốc đến ngày nay cũng sắp đến 2000 năm rồi. Có thể nói, nó có lịch sử lâu dài, thế nhưng nó cũng không thể vượt qua được nguyên tắc của lịch sử. Đó chính là bất luận một học thuyết nào, khi truyền đến thời gian dài thì không tránh khỏi xen tạp những ý tưởng khác, nên gọi là càng truyền càng biến chất, càng truyền càng sai sự thật. Truyền thừa của Phật pháp không thể tránh khỏi hiện tượng này.
Thế là trong xã hội ngày nay, chúng ta nhìn thấy Phật pháp chí ít có năm hình thức không giống nhau xuất hiện ở thế gian này. Chúng ta học Phật nếu muốn đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp, những hiện tượng này chúng ta không thể không tỉ mỉ mà chọn lựa.
Vậy thì hiện tượng thứ nhất là Phật giáo biến thành tôn giáo. Thứ này rất là phổ biến, cho đến trên thế giới của thời hiện đại cũng đem Phật pháp xếp vào một trong sáu tôn giáo lớn. Vậy thì Phật pháp có phải là tôn giáo hay không? Vấn đề này ở đầu năm Dân Quốc, năm Dân Quốc thứ 12, ông Âu Dương Cảnh Vô đã từng nêu ra. Ông nói, Phật pháp không phải là tôn giáo, không phải là triết học, mà là thứ người thời nay cần phải có. Rất nhiều người nghe qua cách nói này đã không thể tiếp nhận.
Lần diễn giải này của ông Âu Dương ngay lúc đó cũng làm chấn Động giới Phật giáo. Nhận thức của ông không sai, thế nhưng cách nói của ông không được viên dung. Phật pháp có phải là tôn giáo hay không vậy? Phật pháp không phải là tôn giáo, không phải là tôn giáo mà thông thường trong xã hội phần đông người quan niệm. Phật pháp không giống như vậy. Bởi vì thông thường định nghĩa của các tôn giáo thì điều tối trọng yếu là nó phải có một vị thần làm chủ tể, chủ tể vũ trụ, chủ tể tất cả chúng sanh, là thần linh chí cao vô thượng, đây là đối tượng sùng bái của họ. Việc này trong Phật pháp đích thực là không có. Phật là người, không phải là thần; Bồ Tát cũng là người, không phải là thần.
Phật pháp là nói bình đẳng, địa vị của Phật Bồ Tát và tất cả chúng sanh là bình đẳng, điều này thì nhất định không thể nào tìm ra trong tất cả tôn giáo khác. Người trong các tôn giáo khác không thể bình đẳng với thần, không bình đẳng với Thượng đế, thế nhưng người trong Phật môn của chúng ta thì bình đẳng với Phật, bình đẳng với Bồ Tát, cho nên Phật giáo không giống như quan niệm của những người trong tôn giáo khác. Thế nhưng Phật giáo chính bản thân mình lại xưng là tôn giáo, đây là sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc mới có, ở Ấn Độ không có. Vào thời đại Tùy Đường của Trung Quốc, do vì pháp môn của Phật giáo quá nhiều, phức tạp, cũng giống như trường đại học vậy, nội dung rất phong phú, các loại khóa trình nên có thì phải có, như vậy thì đối với người căn tánh kém một chút thì đối với việc tu học sẽ rất khó khăn. Thế là có một số pháp sư thông minh đã tuyển chọn một bộ phận ở trên kinh luận, chuyên tu một bộ phận ở trong kinh luận, giống như trong trường học vậy, đem nó phân thành rất nhiều khóa mục, chỉ chuyên tu một môn, như vậy thì đối với người căn tánh bậc trung hạ thì được rất nhiều tiện lợi, nhận được hiệu quả của sự tu học rất tốt. Đây chính là hình thành các tông phái Phật giáo Trung Quốc.
Tông là tên gọi của phái lớn. Ở Trung Quốc chúng ta tiểu thừa có hai tông là Thành Thật tông và Câu Xá tông, thế nhưng hiện tại không còn nữa, ngay đến tiểu thừa cũng không còn.
Đại thừa có tám tông phái. Hiện tại, xét trên thực tế mà nói, chỉ còn tên mà thực chất không còn, không còn gì nữa. Phổ biến thì chúng ta có thể nghe được có Thiên Thai, ở Đài Loan thì chúng ta nghe được có Thiên Thai, học Thiên Thai; Hiền Thụ Giáo thì không thấy nghe đến, không hề nghe qua; Pháp Tướng và Duy Thức có thể còn, nhưng rất hiếm thấy; Tam luận thì không nghe nói, phổ biến nhất chỉ là Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông. Những tông này hiện tại là phổ biến.
Về sau trong mỗi một tông phái lại phân nhánh. Cái nhánh này chính là chi phái, cũng giống như trong trường học phân khoa vậy, càng phân càng nhỏ đặc biệt là đối với người tu học hiện đại này đích thực là có được rất nhiều tiện lợi. Như vậy mới hình thành tông và phái. Trong pháp môn chúng ta tự mình xưng là tông giáo. Tông chuyên môn chỉ Thiền tông, bao hàm tất cả các phái thiền tông khác như Lâm Tế tông ở Đài Loan ngày nay, đây là một phái của Thiền tông. Ở Hàn Quốc có tông Tào Khê tương đối quy mô hơn một chút, số người tu học tương đối nhiều nên gọi là tông môn. Ngoài thiền thông ra đều xưng là giáo, cho nên chúng ta gọi là tông môn giáo hạ. Bản thân Phật giáo xưng tông giáo là cái ý này, cùng với các tôn giáo mà thông thường trong xã hội gọi là hoàn toàn không giống nhau. Đồng tu học Phật của chúng ta gọi là đệ tử Phật, đối với cái biết cơ bản này không thể nào không biết, không thể nào không rõ ràng.
Vậy thì tông môn cùng giáo hạ, phương thức giáo học của nó không giống nhau. Giáo hạ chính là ngoài Thiền tông ra thì còn có chín tông giáo khác. Ngoài hai phái tiểu thừa ra, đại thừa có bảy tông phái đều là y cứ kinh điển, từ cảng mà vào sông, theo bộ mà xếp lớp dạy học, đây là giáo hạ. Sự giáo học của tông môn này thì sao? Nó không y theo kinh điển, nó không dùng kinh điển, cho nên gọi là bất lập văn tự trực chỉ nhân tâm. Việc này cũng y như lớp thiên tài trong giáo dục hiện tại, nó không phải là lớp thông thường. Bạn xem, lục tổ Huệ Năng trong Bảo Đàn kinh nói với chúng ta, những đối tượng mà ngài dạy là người thượng thượng căn, hay nói cách khác, còn cao hơn căn tánh đại thừa. Người có thượng thượng căn mới có năng lực tiếp nhận giáo học của Thiền tông, cho nên lớp Thiền tông là lớp thiên tài của Phật giáo, không phải là lớp thông thường, lớp thông thường đến đó thì không thể học thứ gì. Đó thật gọi là một bước lên trời. Bạn không có năng lực này thì không bước lên nổi, khi bị rớt xuống thì tan xương nát thịt.
Còn giáo hạ thì sao? Giống như đi cầu thang vậy, thời gian của nó dài, mức tiến bộ tương đối chậm, thế nhưng bạn có thể bước đi từng bước, cảnh giới của bạn cũng tăng thêm được một tầng. Cũng giống như đi học vậy, chúng ta có tiểu học, trung học, đại học, đại học năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba, dần dần mà tiến. Đây chính là sự khác biệt của tông giáo.
Tông môn tuy rằng không lập môn tự, tuyệt nhiên không phải là nó không cần văn tự. Ngày nay chúng ta mở Tạng kinh ra xem, văn tự của Thiền tông còn nhiều hơn và rộng hơn so với bất kỳ tông phái nào. Bất lập văn tự là không chấp vào văn tự, thế nhưng họ vẫn cần có kinh điển để ấn chứng, chứng minh thấy biết của họ có chính xác hay không. Khi Tổ Đạt Ma đến Trung Quốc, ban đầu dùng kinh Lăng Già để chứng minh. Từ Ngũ tổ Hoàng nhẫn trở về sau thì mới dùng kinh Kim Cang. Lục Tổ Huệ Năng là từ kinh Kim Cang mà khai ngộ, thế là người biết đến kinh Kim Cang trong kinh điển Phật giáo Trung Quốc được xếp vào hàng bậc nhất, không người nào là không biết kinh Kim Cang, mãi đến đời sau vẫn không thể nào thay đổi được. Hiện tại thì Thiền tông suy rồi. Nguyên nhân suy yếu là vì người thượng căn thượng trí không còn nữa. Người căn tánh trung hạ từ Giáo hạ mà nhập môn cũng là khổ rồi, thời gian quá dài, kinh sách thì quá nhiều chính là thời khóa quá nhiều, thời gian thì là quá nhiều, đặc biệt là người hiện đại ngày nay không hề có lòng nhẫn lại, do đó Giáo hạ cũng suy luôn, tất cả đều suy. Chúng ta đi khắp cả thế giới, đối với giáo hạ chân thật chịu bỏ công ra nghiên cứu thì ví như lông phượng hoàng sinh kỳ lân.
Vậy thì hiện tại phổ biết nhất là gì? Phải xem là Tịnh Độ tông. Cho nên tôi vừa có thí dụ, Thiền tông thì một bước lên trời, dựa vào bản lĩnh của chính mình phải bay lên được; Giáo hạ thì như leo cầu thang, rất là khổ cực; còn Tịnh Độ tông thì sao? Không phải leo cũng không phải một bước lên trời, vậy thì lên bằng cách nào? Đi lên bằng thang máy. Người căn tánh bậc hạ cũng có thể đi, chỉ cần bạn chịu bước vào thang máy thì bạn có thể lên đến tầng cao nhất. Việc này chính là nói rõ, tu học của tịnh độ rất thích hợp với người hiện đại. Điển tích của Tịnh Độ rất ít, khi Thế Tôn truyền lại chỉ có ba kinh, chính là tịnh độ ba kinh. Về sau, Bồ Tát Thiên Thân viết ra một cuốn, đó là nói ra tâm đắc sự tu học của ngài ấy, cũng truyền đến Trung Quốc của chúng ta. Đây là nói ra một phần tu học tâm đắc nên gọi là Vãng Sanh Luận. Thực tế thì Vãng Sinh Luận là gì? Là báo cáo của Bồ Tát thiên thân tu học tịnh độ, ngài lý giải đối với pháp môn tịnh độ, tín tâm đối với tịnh độ, phương pháp đối với tu học tịnh độ. Văn từ Vãng Sanh Luận tuy là không nhiều, thế nhưng rất rõ ràng, rất đáng để chúng ta tham khảo. Vì vậy, nương tựa của Tịnh Độ chính là ba kinh một luận. Trong ba kinh thì kinh Vô Lượng Thọ là dài nhất, phân lượng nhiều nhất; tiểu bổn kinh A Di Đà là ngắn nhất, cho nên các điển tích này tôi nghĩ mỗi vị đồng tu đều đã xem qua. Ba kinh một luận hợp lại cũng chỉ là một quyển nhỏ mỏng mỏng thôi. Tất cả kinh điển của Tịnh Độ chúng ta chỉ có bấy nhiêu thôi, thế cho nên rất thích hợp với người đời nay.
Đến sau này, năm Hàm Phong trước nhà thanh, Ngụy Nguyên cư sĩ đem phẩm Hạnh Nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, là phẩm sau cùng trong kinh Hoa Nghiêm để vào sau ba kinh tịnh độ, đây gọi là tịnh độ bốn kinh. Cho nên, nếu như các vị xem thấy có tịnh độ bốn kinh thì bốn kinh là do đây mà ra. Lão cư sĩ Ngụy đem phần kinh văn này thêm vào phía sau của ba kinh đích thực là người có huệ nhãn. Vì sao vậy? Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ thì biết, hiểu rõ quan hệ của kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm rất là mật thiết. Cho nên những năm đầu Càn Long, cư sĩ Bành Triệu Thăng đã từng nói, kinh Vô Lượng Thọ là trung bổn kinh Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là tiểu bổn kinh Hoa Nghiêm. Tuy là văn tự của kinh điển này rộng hẹp không đồng nhau, nhưng nội dung của nó thì không khác. Đây chính là đem kinh Vô Lượng thọ và kinh A Di Đà xem đồng với kinh Hoa Nghiêm.
Hoa Nghiêm ở Trung Quốc dường như mỗi một người học Phật đều thừa nhận là vua trong các kinh. Vậy thì kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà nếu như sánh bằng kinh Hoa Nghiêm mà nói, vậy thì do đây có thể biết, kinh điển tịnh độ cũng là vua trong các kinh. Cái ý này thực tế mà nói thì sao? Ngay trong kinh Vô Lượng Thọ chúng ta sẽ được chứng minh chất thực, trong 48 lời nguyện của Phật A Di Đà chính là nói rõ ra khóa mục tu học thế giới Tây Phương, là cái đức của Phổ Hiền đại sĩ, cũng chính là nói đều là tu hành Bồ Tát Phổ Hiền. Vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là tu hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, cho nên cách làm này của Ngụy Nguyên cư sĩ phù hợp với ý chỉ của Phật. Ông đã làm rất hay.
Váo đầu năm Dân Quốc, lão pháp sư Ấn Quang đã đem Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương trong kinh Lăng Nghiêm để vào sau Tịnh độ bốn kinh để trở thành Tịnh độ năm kinh. Năm kinh này là do đây mà ra. Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương khi chúng ta đọc kinh Lăng Nghiêm, thậm chí ngày xưa khi tôi giảng qua kinh Lăng Nghiêm rất nhiều lần nhưng cũng đều là hàm hồ không rõ ràng. Cứ như vậy mà lướt qua. Hay nói cách khác là, chúng ta không thấy được chỗ tuyệt diệu của Niệm Phật Viên Thông Chương, không thể dịch ra. Mãi đến khi chúng ta có được Tịnh độ năm kinh thì suy nghĩ lại vì sao lão pháp sư đem chương này tóm gọn lại để phía sau bốn kinh? Chương kinh này nhất định là có giá trị và ý nghĩa đặc biệt, thế cho nên tỉ mỉ xem lại kinh Lăng Nghiêm. Cách xem lại cái kinh chương này cùng với cách xem lúc trước là hoàn toàn không giống nhau. Nếu như không nhờ vào việc làm này của lão pháp sư, chúng ta đích thực lơ là đối với sự khai thị rất trọng yếu của chương kinh này.
Chương kinh này quả thực là rất ngắn, còn ngắn hơn so với Bát Nhã Tâm kinh. Bát Nhã Tâm kinh có 260 chữ, Niệm Phật Viên Thông Chương chỉ có 244 chữ. Nó xác xác thực thực là tâm kinh của Tịnh Độ tông. Không chỉ là tâm kinh của Tịnh Độ tông, hiện tại chúng ta đều biết, Tịnh Độ cùng Hoa nghiêm không hề khác nhau, đó chính là tâm kinh của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh. Hoa Nghiêm là tâm yếu của cả Đại Tạng Giáo, là tinh hoa của cả Đại Tạng Giáo. Vậy thì nói cách khác, Niệm Phật Viên Thông chương này chính là tâm kinh của đại tạng kinh, quan trọng hơn rất nhiều so với Bát Nhã Tâm kinh. Bát Nhã Tâm kinh, tông chỉ của nó là phá chướng, diệt tội, thành Phật, Bát Nhã Tâm kinh là như vậy. Chúng ta người người đều niệm Phật, có mấy người đã phá được chưa? Có mấy người diệt được tội? Phiền não chướng, sở chi chướng, hai chướng này vẫn chưa trừ, tội cũng chưa diệt, việc này đã nói rõ rồi. Bát Nhã Tâm kinh không phải là không tốt, mà là đã không còn trị được bệnh của người nay nữa. Là một bài thuốc tốt phải uống thế nào vậy? Thuốc không đúng bệnh, không đúng bệnh nữa rồi. Thời trước thì được, chữa được đúng bệnh, người hiện đại thì không được, không đúng bệnh nữa rồi. Thế nhưng Niệm Phật Viên Thông chương này thì trị đúng bệnh. Trong Niệm Phật Viên Thông chương dạy chúng ta: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm liên tục”, dạy bạn thành thực trung thực niệm Phật. Vậy hiệu quả thì sao? Hiệu quả cùng với tâm kinh thì không hề khác biệt. “Không nhờ phương tiện, tự đắc tâm khai”, cái tâm khai nay ở trong Thiền tông là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, có thể thấy được hiệu quả đó chân thật là trừ chướng diệt tội, thành Phật. Phương pháp không giống nhau, cho nên nếu chúng ta chân thật y theo phương pháp lý luận của Viên thông chương mà tu học, không chỉ nói hiện tại, mà Thế Tôn trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói qua, trong kinh Pháp Diệt Tận cũng nói qua, mãi đến pháp diệt tận qua 12.000 năm, khi đã hết rồi, sau cùng kinh Vô Lượng Thọ còn lưu lại thế gian 100 năm. Đến khi kinh Vô Lượng Thọ cũng không còn thì danh hiệu của câu A Di Đà Phật vẫn còn lưu lại thế gian 100 năm. Vậy thì chúng ta mới hiểu được, phương pháp gom nhiếp sáu căn tịnh niệm liên tục này, mãi đến Phật pháp diệt tận, đến lúc sau cùng đó vẫn còn công hiệu. Do đó, việc làm này của lão pháp sư đánh thức người học Phật hiện đại của chúng ta, chúng ta mới đặc biệt chú ý đến sự việc này. Biết được giá trị chân thật của Niệm Phật Viên Thông chương thì càng phải nên chăm chỉ nỗ lực mà học tập.
Đây là nói kinh luận hiện tại mà Tịnh Độ y theo. Tuy là năm kinh một luận, nhưng so với các tông phái khác thì kinh điển mà chúng ta nương theo là rất ít, rất dễ dàng học tập. Có thể đọc hết năm kinh đương nhiên là rất tốt, bạn hiểu được tròn đầy thì sẽ tăng trưởng tín tâm, nguyện tâm của bạn. Nếu như thời gian của chúng ta hoặc hoàn cảnh làm việc không cho phép chúng ta có nhiều thời gian để thâm nhập kinh luận thì trong năm kinh này chọn ra một loại. Như Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông chương là ít nhất, chọn loại này cũng được. Chọn bất cứ loại nào cũng phải một môn thâm nhập, cả đời này mong cầu thế giới Tây Phương cực lạc thì nhất định vãng sanh.
Đây là chỗ tuyệt diệu của Tịnh Độ cho nên được sự tán thán của tất cả chư Phật, tất cả chư Phật hoằng dương. Chỗ này là nói sự thích hợp với người hiện đại, thế nhưng chúng ta phải biết rõ hoàn cảnh trước mắt, biết rõ Phật giáo chân thật. Phật giáo vừa rồi mới nói ra chính là Phật pháp truyền thống. Nếu biến chất thì biến thành tôn giáo, đích thực rất phổ biến. Vì sao biến thành tôn giáo? Đem Phật đem Bồ Tát đều xem là thần minh để cúng bái nên liền biến thành tôn giáo. Cầu Phật Bồ Tát cũng giống như cầu thần minh vậy, đến bảo hộ cho mình, xem Phật Bồ Tát như thần minh, đây chính là đem Phật pháp biến thành tôn giáo. Các vị phải nên biết, tôn giáo là do cảm tình, tôn giáo là mê tín, tông chỉ của Phật pháp là phá mê khai ngộ, không dạy chúng ta mê tín.
Chúng ta rất bội phục đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, không phải ngài xỏ mũi kéo chúng ta đi. Ngài dạy mỗi một người chúng ta đều là một đại trượng phu định thiên lập địa, không phải là bị ngài xỏ mũi kéo đi. Việc này không ai có thể sánh được, thế nhưng thông thường hiện tại đều đem Phật Bồ Tát xem là thần minh, số người đến cúng bái không phải là ít. Đây là ngộ nhận quá lớn, không biết được Phật là lão sư của chúng ta. Lão sư mà đã biến thành thần rồi thì đơn giản mà nói, đó là sự vũ nhục đối với lão sư, thật đại bất kính đối với lão sư.
Cho nên, đệ tử Phật chúng ta cúng dường hình tượng Phật Bồ Tát cũng không ngoài hai cái ý này. Ý thứ nhất là phản bổn báo thị, giống người Trung Quốc chúng ta lập bài vị cúng bái tổ tiên, hoàn toàn giống như ý này vậy. Chúng ta kỉ niệm đối với các ngài, mỗi niệm không quên các ngài, đây là cái ý báo ân các ngài. Các ngài có đại ân đại đức đối với chúng ta, chúng ta tạo tượng để kỉ niệm các ngài. Là cái ý này, là cái ý kỉ niệm chứ không phải đem các ngài xem là thần minh, vậy thì sai rồi.
Cái ý thứ hai thì sao? “Kiến hiền tư tề”. Các ngài cũng là phàm phu giống như chúng ta, các ngài dùng phương pháp đúng đắn tu hành thành tựu được nhân cách vĩ đại viên mãn. Các ngài đáng được chúng ta noi theo. Các ngài có thể làm được, ta cũng phải nên làm cho được. Cho nên nhìn thấy hình tượng Phật Bồ Tát là tấm gương cho chúng ta tu học, là mô phạm để chúng ta tu học, chúng ta phải hướng đến các ngài để học tập, phải học được giống như các ngài, là cái ý này. Giờ phút nào cũng nhắc nhở chúng ta nên chúng ta không nên xem các ngài là thần minh để cúng bái.
Chúng ta tôn xưng ngài là bổn sư. Sư là lão sư, quan hệ của chúng ta với Phật là quan hệ thầy trò. Phật là lão sư, bổn sư, là người đầu tiên sáng lập ra một nền giáo dục. Người đầu tiên sáng lập ra nền giáo dục Phật Đà là lão sư căn bản, cho nên chúng ta tôn xưng với Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thông thường chúng ta xưng danh hiệu Phật, phía trước còn thêm hai chữ “Nam mô”. Nam mô là tiếng Ấn Độ, dịch thành tiếng Trung Quốc là sự quy y, có ý lễ kính, chúng ta chí kính hướng đến bổn sư. Nam mô chính là ý chí kính. Quy y là chúng ta quay đầu. Từ tất cả những tập quán quay đầu lại, chúng ta tuân thủ tất cả những giáo đạo của Thích Ca Mâu Ni Phật, đây chính là quy y, cho nên xưng Nam Mô.
Tất cả Bồ Tát là học sinh của Phật, học sinh đầu tiên. Hôm nay chúng ta sau 3000 năm chúng ta quy y với Phật, chúng ta tiếp nhận nền giáo dục của Phật, chúng ta là đệ tử đời sau của Phật. Bồ Tát là học sinh những năm đầu. Quan hệ của chúng ta với Bồ Tát là bạn đồng học, các ngài là huynh trưởng của chúng ta. Vì sao đem huynh trưởng cũng xem thành thần minh để đối đãi? Việc này thực tế mà nói là thật quá đáng! Cho nên chúng ta phải nhận biết thật rõ ràng thì học tập của chúng ta mới có thành tích được. Đã sai lầm xem Phật Bồ Tát là thần minh, nên chúng ta biến thành mê tín, cho dù hảo tâm chăm chỉ tu học thì bạn cũng không thể khai ngộ. Vì sao vậy? Bởi vì bạn đã mê tín. Tu mê thì làm sao có thể phá mê? Nên không thể phá mê cũng không thể khai ngộ. Cần phải dùng chí tuệ, phải dùng giác để tu thì mới có thể phá mê, mới có thể khai ngộ. Việc này không thể không biết, không thể không phân biệt rõ ràng. Cho nên, Phật giáo không phải tôn giáo thông thường.
Mấy năm gần đây, những niên đại không lâu, khoảng chừng 30 năm thôi (ba mươi năm trước vẫn còn chưa nghe qua), đã xuất hiện Phật giáo của tà giáo, lấy nhãn mác của Phật giáo để lừa gạt chúng sinh, khiến cho chúng sinh phải chịu tai hại tương đối nghiêm trọng. Đây là một hiện tượng rất đáng thương, chúng ta phải cẩn thận, phải nhận thức rõ ràng. Bởi vì thông thường các tôn giáo, hoặc giả là học thuật còn không đến nỗi hại người, cái tà giáo đó thì hại người. Rất là đáng tiếc, người thế gian hiện tại thật đúng như lời Phật là những kẻ đáng thương. Vì sao họ là kẻ đáng thương vậy? Họ không phải là người không có nhận qua giáo dục, có rất nhiều người vượt qua giáo dục cao đẳng, nhận được học vị thạc sĩ, học vị tiến sĩ nhưng vẫn là tin tà giáo. Thật kỳ lạ! Đó là người thế gian hiện tại, thật là chỉ nghe gạt không chịu nghe khuyên, nhận giả không nhận thật, đây chính là những kẻ đáng thương mà trong Phật pháp đã nói. Thế nhưng còn có một loại nữa, cũng là cận đại mới phát hiện, Phật giáo diễn trò, hoàn tòan chú trọng hình thức, làm những việc pháp sự, họ chỉ làm những việc này. Một pháp hội có đến mấy vạn người, mấy chục vạn người, dựa vào hình thức này để diễn trò. Tỉ mỉ mà quan sát thì không có nội dung, hoàn toàn không liên quan đến giáo học của Phật pháp. Biểu diễn, diễn trò, làm trò náo nhiệt, những việc này đều là sai lầm. Chúng ta cần phải nhận thức rõ ràng, phân biệt rõ ràng, quay đầu lại giáo dục của Phật Đà.
Phật xác xác thực thực là một nhà đại giáo dục, cũng giống như Khổng Lão Phu Tử của Trung Quốc chúng ta. Thế nhưng chúng ta phải nên biết, Khổng Lão Phu Tử đích thực là có học vấn, có đạo đức, có năng lực, ngài vốn dĩ là muốn vì xã hội nỗ lực làm một chút việc tốt, mở ra hoài bão của ngài, thế nhưng cả đời ngài không được như ý, chu du các nước nhìn thấy rất nhiều quốc vương (chư hầu của các nước Trung Quốc thì người ngọai quốc gọi là quốc vương). Những vị quốc vương này rất cung kính đối với ông, thế nhưng không nước nào chịu dùng ông. Tại vì sao không dùng ông vậy? Bởi vì ông quá giỏi, quá thông minh, sợ sau khi dùng ông rồi thì không thể khống chế được. Nếu như ông muốn làm một cuộc cách mạng hoặc một cuộc đảo chính như hiện tại là một điều rất rễ dàng đối với ông. Lấy trí tuệ năng lực của ông cùng với những học trò dưới trướng của ông thật là dễ như trở bàn tay. Thế nhưng Phu Tử trong lịch sử không hề lưu lại một vết xấu, nhất định là người tuân thủ phép tắc. Không có người dùng ngài thì đành phải quay về quê hương dạy học. Cho nên Phu Tử dạy học là vì ở trên phương diện chính trị không được như ý nên quay về quê hương dạy học, không giống như Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất thân là một vương tử, phụ thân của ngài là một quốc vương của một nước nhỏ, ngài có thể kế thừa vương vị, ngài có thể ở trên phương diện chính trị triển khai hoài bão của ngài. Thế nhưng ngài không làm, ngài rút khỏi chính trị mà theo công tác giáo dục. Thế nhưng từ nơi giáo dục thì sao? Khổng Lão Phu Tử của Trung Quốc chúng ta cùng với Thế Tôn ngài có thể nói là rất thành công, thế những điểm xuất phát của hai người thì không giống nhau. Việc này chúng ta nên biết cho rõ ràng. Cho nên ngày nay có một số đồng tu hỏi tôi, đệ tử Phật có nên làm chính trị hay không? Bạn nghĩ xem, Thích Ca Mâu Ni Phật là thế nào thì chúng ta có thể thể hội được. Vì sao gọi là chính? Chính là sự việc của đại chúng, của mọi người. Thế Tôn tuy không làm quốc vương, dường như rút khỏi phạm vi chính trị, thế những giáo dục là căn bản để lập quốc, đại căn đại bản. Công việc mà ngài đã làm so với chính trị còn thực tế hơn, còn vĩ đại hơn. Trong Thiền tông nói tu hành, động một tí là nói tu từ căn bản. Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ cho đại chúng làm việc là từ căn bản mà bắt tay vào. Căn bản chính là giáo dục. Người người đều giác ngộ, người người đều thông hiểu, người người đều có thể tu thiện thì thế giới này liền được thái bình, xã hội tốt đẹp. Tất cả chính trị gia trong và ngoài nước, khẩu hiệu của họ, nguyện vọng của họ chính là mục tiêu này, thế nhưng chưa chắc họ có thể làm được. Phật làm được, Khổng Lão Phu Tử cũng làm được. Việc làm của người ta là thật làm, không phải là hô to khẩu hiệu. Chúng ta nên thể hội tinh thần và giá trị giáo dục của ngài. Nếu chúng ta muốn học tập theo Phật, làm theo Phật Đà, mục tiêu của việc giáo dục này là dạy chúng ta lìa khổ được vui.
Khổ từ do đâu mà ra? Là việc trước tiên phải tìm ra. Cũng giống như thầy thuốc vậy, trước tiên phải tìm ra căn bệnh, cái bệnh đó vì sao mà sanh ra, xem nó phát triển ra sao. Phật nói tất cả khổ là từ mê mà ra. Mê cái gì vậy? Mê mất đi chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Vũ trụ chính là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta. Chúng ta đối với hoàn cảnh sinh hoạt của chính chúng ta không thể không thấu hiểu. Nhân sanh chính là mình. Đối với chính mình, đối với hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình hoàn toàn vô tri, không biết gì hết, một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy. Bạn xem những người đi bái lạy thần mình thì rất rõ ràng. Họ đi bái thần hỏi tiền đồ của chính mình, hỏi tương lai của chính mình, đó chẳng phải là đối với chính mình, đối với hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình không hiểu gì hết nên phải đi hỏi người khác? Vậy thần mình có biết được hay không vậy? Không thấy được là biết. Có người nói vị thần này rất linh, tôi cũng gặp được một số đồng tu nói với tôi thần minh ở nơi kia rất hiển linh, họ thường hay đi. Tôi liền hỏi ngược lại họ, giả như một trăm người đi hỏi thần minh này mà một trăm người đều linh thì tôi tin tưởng thần minh này linh. Nhưng nếu nói 100 người đi cầu mà chỉ có một mình bạn linh thì đó là do vận may của bạn đến đúng lúc, không phải do thần minh nhận biết. Một người có đầu óc tỉnh táo sáng suốt một chút thì dễ dàng nhận ra. Bạn đi bái thần, thần bảo hộ bạn phát tài, không sai, hôm nay quả nhiên phát tài, đó là do trong mạng của bạn có, không bái thần thì cũng phát tài, vừa bái thần thì cũng đúng lúc liền cho rằng thần minh linh hiển. Khi những người khác đi cầu khẩn vì sao họ không phát tài được vậy? Chỉ riêng bạn phát tài, thăng quan? Có thể thấy, cái việc này không do thần minh thao túng. Đây là đều vô tri, mê tín, hoàn toàn mê mất đối với mình và hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình. Đây là nguồn gốc của tất cả khổ nạn. Cho nên phương pháp giáo dục của Phật tập trung vào nhân tố này.
Phật đề xướng phá mê khai ngộ, hay nói cách khác, Phật dạy chúng ta nhận thức chính mình chuẩn xác, nhận thức hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình, làm một người chân thật giác ngộ mà không mê hoặc, tư tưởng kiến giải, hành vi của chúng ta hoàn toàn phù hợp với chân tướng sự thật. Vậy thì không mê, như vậy mới có thể được lợi lạc, lìa khổ được vui. Có thể thấy được đây là lìa khổ được vui. Phật không có nói ngài có năng lực giúp bạn lìa khổ, an vui, Phật không nói như vậy. Phật chỉ là dạy bảo chúng ta, đem kinh nghiệm tu học của ngài ra cho chúng ta tham khảo, thuần túy là giáo học. Trong Phật giáo không có mê tín, do đó Thế Tôn xuất hiện ở thế gian, giảng kinh nói pháp 49 năm, hoàn toàn là đem chân tướng vụ trụ nhân sinh vì chúng ta mà nói rõ ra mà thôi. Nếu như thông suốt rồi thì liền biết được làm thế nào để tư duy, làm thế nào để sinh hoạt, khiến cho cả đời này của chúng ta trải qua được rất hạnh phúc, rất an vui, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi, xã hội an định, thế giới hòa bình. Sự việc này đích thực là có thể đạt đến, không phải là việc giả dối, bởi vì những thứ này không phải nhờ vào người khác, không phải nương tựa người khác. Phật là dạy chính chúng ta chăm chỉ nỗ lực mà làm. Trồng nhân thiện ắt được quả thiện, Phật dạy bảo chúng ta như vậy, không phải may mắn mà được, không phải dựa vào sức mạnh bên ngoài. Nói là bảo hộ gia trì mà được thì đó là giả, không đáng tin cậy.
Thế nhưng nhân sinh của vụ trụ thì không dễ gì hiểu được. Chúng ta nhắc đến nhân sinh, nhắc đến mình mình, quan niệm đầu tiên liền cảm giác được thân là chính mình. Có một số triết học gia thông minh, họ biết được thân là chính mình thì không hợp lý, vì thân mình từng giây đang thay đổi. Thế là một số triết học gia này nói: “Ta nghĩ tức là ta đang tồn tại”. Đem cái mà họ có thể tư duy tưởng tượng ra cho rằng đó là chính mình. Cái này là nói đến duy tâm luận. Việc này có phải vậy không? Vẫn là không phải. Bạn nói rằng có thể tư duy tưởng tượng là chính bạn, một ngày từ sớm đến nghĩ tưởng lung tung vậy thì cái nào là chính bạn vậy? Đích thực là có cái ta chân thật. Phật pháp gọi là thường, lạc, ngã, tịnh. Bốn tình thức này là thật, không phải giả. Trong Thiền tông nói bản lai diện mục trước khi cha mẹ sinh ra, đó là chân thật chính mình. Phật dạy chúng ta phải nắm được chân thật chính mình, sau đó biết được không gian sinh hoạt của chính mình. Chúng ta nói không gian sinh hoạt, hoàn cảnh sinh hoạt, cái không gian đó rất rộng rất lớn. Tận hư không khắp pháp giới là không gian hoạt động của chúng ta, làm gì mà nhỏ hẹp như vậy! Chúng ta, thực tế mà nói, từ vô thỉ kiếp đến nay đã mê mất chính mình, đã mê lâu đến như vậy, đã mê sâu đến như vậy, Thế Tôn giảng mấy bộ kinh, giảng qua mấy lần liền có thể thức tỉnh chúng ta, liền có thể dạy chúng ta quay đầu, thật không dễ dàng! Mấy bộ kinh, mấy lần giảng giải là có thể quay đầu thì đó không phải là người thông thường, phải gọi đó là bậc thượng thượng căn, chính là thiên tài, tuyệt đối không phải là người thông thường. Trong Phật pháp không gọi là thiên tài, Phật pháp gọi hiện tượng này là gì vậy? Trong đời quá khứ của họ đã bồi dưỡng vô lượng thiện căn phước đức, ngay lúc này hiện hành. Phật vì họ nói Pháp là tăng thượng duyên, giúp họ một tay, chỉ có như vậy thì liền bừng tỉnh. Nếu như nền tảng thiện căn phước đức của họ không sâu dày, thì cho dù có nghe Phật pháp cũng là luống không. Cái luống không này là nói cả một đời, lợi ích thì cũng có, gọi là trong bát thức đã trồng sâu căn lành. Việc này là lợi ích chân thật của họ. Vậy thì do đây có thể biết, chúng ta một đời nghe được Phật pháp, có thể sanh tâm hoan hỷ, có thể chịu đi làm, cũng giống như trong kinh A Di Đà đã nói là không phải thiện căn phước đức nhân duyên ít mà có thể sanh về nước kia. Hiện tại chúng ta hiểu rõ rồi, thiện căn phước đức nhân duyên của chúng ta đã chín mùi. Đây là một đại nhân duyên rất hy hữu, đáng quý! Hy vọng ngay trong một đời này của chúng ta phải trân trọng cái nhân duyên này, nhất định không thể để cái nhân duyên này luống qua. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì thế giới Tây Phương Cực Lạc cùng với cõi nước của chư Phật, vừa rồi mới nói, đều là hoàn cảnh sinh hoạt của chính mình, đều là không gian hoạt động của chính chúng ta. Việc này một tí cũng không giả.
Trước mắt chúng ta ở thế gian này có được hạnh phúc an vui không? Nhất định đạt được. Chỉ cần sự tu học của bạn xác xác thực thực y theo phương pháp và lý luận Phật dạy cho chúng ta mà tu học thì nhất định sẽ có được hiệu quả. Hiệu quả này ra sao? Chính là thành tích mà hiện tại chúng ta đã nói, nhất định có thành tích hiển lộ. Cái thành tích này khi nói ra khiến cho người rất là ngưỡng mộ. Người thế gian thông thường họ không hiểu Phật pháp, họ không tin Phật giáo, họ cầu tài phú, cầu thông minh trí tuệ, cầu khỏe mạnh sống lâu, họ có cái tâm nguyện này để mong cầu, thế nhưng chưa chắc gì có thể đạt được. Thế nhưng nếu y theo Phật pháp mà tu học, nhà Phật thường nói, trong cửa Phật có cầu ắt có ứng. Lời nói này là thật không phải là giả, có cầu ắt có ứng. Cầu tiền của được tiền của, cầu phú quý được phú quý, cầu con cái được con cái, cầu trường thọ được trường thọ, không thứ gì là cầu không được. Thế nhưng ngay lúc bạn ở trước mặt Bồ Tát mà cầu xin nhưng bạn không nhận được là do nguyên nhân gì vậy? Bởi vì bạn xem Phật Bồ Tát là vị thần, hướng đến thần mà mong cầu. Phật Bồ Tát là người vĩ đại, đem ngài ép xuống thành vị thần, bạn tưởng tượng xem, bạn đã sai rồi, cho nên bạn cầu không được.
Phải nên cầu như thế nào? Tuân thủ đạo lý mà Phật đã dạy cho chúng ta, chúng ta phải thấu hiểu phương pháp đã dạy cho chúng ta, như lý như pháp mà cầu thì nhất định cầu được. Như lý như pháp, tôi lại nói với các vị, không phải hướng đến Phật Bồ Tát mà cầu, mà là hướng đến chính mình mà cầu, cho nên Phật pháp gọi là nội học. Phật pháp dạy người từ nơi tâm tánh mà cầu, không phải hướng bên ngoài. Hướng ngoại đó gọi là ngoại đạo. Giả như chúng ta không biết hướng nội mà cầu, không biết được cầu chính mình mà đi cầu Thích Ca Mâu Ni Phật, hướng đến Bồ Tát Quan Âm mà cầu, bạn đã đang hành ngoại đạo. Bạn hoàn toàn hiểu sai bổn ý của Phật. Phật dạy bạn, bạn hoàn toàn hiểu sai và làm sai. Cho nên trong Phật pháp gọi là ngoại đạo không phải là chỉ tôn giáo khác, việc này các vị nên hiểu rõ. Ý nghĩa của chữ ngoại đạo là ngoài tâm mà cầu pháp, bạn không biết được phải từ tâm tánh mà cầu, bạn hướng đến bên ngoài mà cầu nên gọi ngoại đạo. Trong Phật môn định nghĩa ngoại đạo là cái ý này. Thế thì chúng ta đi quan sát, quan sát người học Phật, có mấy người không phải ngoại đạo? Học Phật để học thành ngoại đạo thì họ làm sao có thành tựu gì! Do đó, cho dù khổ tu cả đời vẫn cứ phải luân hồi sáu cõi. Nếu bạn hỏi do nguyên nhân gì vậy? Bởi vì họ hiểu sai nghĩa chân thật của Như Lai, họ học là ngoại đạo, là ngoài tâm mà cầu pháp. Ngoài cái tâm này mà cầu pháp, thực tế ra mà nói, hiện nay rất là phổ biến. Khi vừa bắt đầu học Phật thì biến thành ngoại đạo. Vừa bắt đầu là gì? Thọ quy y. Truyền thụ tam quy y này chính là bảo bạn đi làm ngoại đạo. Vì sao vậy? Quy y Phật, bạn xem Phật ở nơi đó, bạn đi quy y ngài. Tượng xi măng, tưởng gỗ, tự thân còn khó giữ, vậy mà bạn đi quy y.
Quy y pháp là kinh điển. Từ xưa đến nay kinh điển này bị người ta huỷ diệt thiêu đốt biết bao nhiêu lần, trong lịch sử Trung Quốc tam võ nhất tông, vậy có thể nương tựa được không? Có rất nhiều người trong nhà thỉnh một bộ Đại Tạng kinh cúng ở nơi thờ Phật Bồ Tát ở trong nhà họ để bảo hộ cho họ. Đại Tạng kinh trước giờ chưa hề xem qua, cũng không cho người khác mượn xem, để nó ở đó thành sâu mọt, còn nói Phật Bồ Tát ở trong nhà họ bảo hộ cho họ. Đây là mê tín.
Quy y tăng, tăng là một người xuất gia. Người xuất gia phàm phu, ta quy y một vị nào đó, ta quy y một vị pháp sư nào đó có đáng lo không?
Ngoài tâm mà cầu pháp, thì Phật Pháp Tăng đều biến thành bên ngoài. Vừa thọ tam quy thì thành ngoại đạo. Nếu như Phật nhìn thấy cái hiện tượng này nhất định sẽ lắc đầu rơi nước mắt. Làm sao có thể biến thành hiện tượng kỳ quái này! Cho nên chúng ta biết được, quy y tam bảo, tam bảo là tự tính tam bảo. Phật là gì vậy? Tự tánh giác, giác mà không mê, đây là Phật. Pháp là chánh, chánh tri chánh kiến, chánh mà không tà, đây là tự tánh pháp bảo. Tăng là thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh một trần không nhiễm. Thực tế mà nói, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta phương pháp niệm Phật: “Gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”, đó là tự tánh tam bảo. Nếu như lại nói phương pháp thì đó là pháp bảo, nếu như nói bản thể của nó thì đó là Phật bảo. Hai câu nói này đều đầy đủ tự tánh tam bảo. Phật dạy chúng ta như vậy mà quy y, không phải quy y tam bảo bên ngoài. Quy y tam bảo bên ngoài, không hiểu được tam bảo bên trong thì biến thành ngoại đạo. Do đó, bạn nói bạn học Phật có thành tựu thì bạn có thể thay đổi thể chất, cải biến thể chất, đây là câu nói rất phổ biến hiện nay. Người chân thật học Phật thì thể chất nhất định có thể thay đổi. Thay đổi tâm lý, thay đổi thể chất, người học Phật gọi là đắc pháp. Công phu đắc lực tất nhiên có hiện tượng này, cũng chính là nói thân thể của bạn càng ngày càng tốt hơn, dung nhan của bạn cũng là tỏa sáng. Đây không phải do Phật Bồ Tát bảo hộ, cho rằng Phật Bồ Tát bảo hộ, Phật Bồ Tát gia trì là ngộ nhận. Từ đâu mà được vậy? Tâm của bạn càng ngày càng thanh tịnh, càng ngày càng chân thành, càng ngày càng từ bi, tướng tùy tâm chuyển. Tâm thay đổi thì tướng mạo sẽ thay đổi thôi, đạo lý chỉ là như vậy. Đây là Phật dạy cho chúng ta. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này thì sẽ biết được cách làm, đương nhiên đạt được hiệu quả. Đây là ân đức lão sư dạy cho chúng ta, chúng ta mỗi niệm không quên cảm ân đối với lão sư là cái ý này. Cho rằng Phật gia trì, Bồ Tát bảo hộ đều gọi là mê tín. Người mê tín quá nhiều! Hôm nào tôi đi đến đâu người ta cũng quỳ lạy trước mặt tôi nói: “Pháp sư, xin ngài xoa đầu gia trì”. Sờ đầu nhiều thì tay không còn sạch sẽ, dễ dàng truyền sang bệnh truyền nhiễm, việc này cũng được gọi là gia trì sao? Việc này là mê tín, mê đến trình độ như vậy! Việc gì gọi là gia trì? Giảng đạo lý cho bạn nghe, truyền đạt cho bạn phương pháp, đây còn gọi là gia trì, không phải là xoa xoa đầu như vậy mà gọi là gia trì, đó là mê hoặc điên đảo, hiểu sai ý Phật. Thực tế việc này rất là phổ biến. Cho nên nếu chúng ta đi trên con đường mê tín thì chúng ta sẽ không có được hiệu quả tốt, cũng chính là bạn sẽ không đạt được hạnh phúc an vui trước mắt, bạn cũng sẽ không đạt được mọi việc thuận lợi. Nhất định phải tuân thủ lý luận và giáo hối của Phật. Cho nên, Phật pháp chú trọng ở chỗ giải và hành. Giải chính là rõ lý, rõ ràng thông đạt lý luận cùng phương pháp. Hành là phải chân thật làm cho được. Nếu như nói là bạn hiểu được đạo lý, hiểu được phương pháp mà làm không được, thực tế ra mà nói, bạn vẫn chưa hiểu được đúng pháp.
Quốc phụ tiên sinh Tôn Trung Sơn đã từng nói qua: “biết khó làm dễ”. Câu nói này dùng trong Phật pháp rất là thích hợp. Năm xưa khi tôi mới học Phật, thân cận đại sư Chương Gia, chính câu nói này đã từng thỉnh giáo qua với đại sư Chương Gia. Biết là thật khó, làm thì dễ, cho nên người chân thật hiểu biết làm gì có việc không làm được. Người không làm được, thành thật mà nói, họ nói họ biết nhưng không phải vậy, không thấy được là họ thật biết. Thật biết thì nhất định sẽ làm đến được. Ý nghĩa này trong kinh Pháp Cú của Phật giáo cũng có, là Phật nói, Phật nêu ra rất nhiều, rất nhiều thí dụ dạy bảo chúng ta làm là quan trọng, chỉ có làm, làm là thực tiễn thật biết của bạn, đem cái thật biết của bạn vào trong làm. Đó là khảo nghiệm, xem cái biết đó có phải là thật không. Thế cho nên biết và làm hỗ trợ lẫn nhau, biết có thể giúp cho làm, làm có thể giúp cho biết, làm cho cái biết của bạn càng thâm nhập, càng rộng hơn, càng viên dung, cho nên nó luôn hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, tu học của chúng ta cần phải giải hành tương ưng.
Giải từ nơi đâu mà học vậy? Từ đọc kinh. Khi đọc kinh là cầu trí tuệ chân thật, thế nhưng khi đọc kinh không thể cầu giải. Nếu bạn vừa đọc kinh vừa suy nghĩ ý nghĩa trong kinh là nói gì, là nói đạo lý gì thì sai rồi, chỉ cần bạn dùng tâm cung kính, tâm chân thành, tâm thanh tịnh, thành thật mà đọc thì được rồi. Mục đích của tôi đọc [kinh] là ở đâu vậy? Mục đích đọc kinh chính là tu tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi của bạn. Đọc kinh là tu những việc này, cho nên không cầu giải. Nếu như một mặt đọc kinh, một mặt nghĩ tưởng ý nghĩa, đó là nghĩ tưởng lung tung. Bạn xem, bạn đọc kinh lại xen tạp nghĩ tưởng lung tung, bạn còn có được thành tựu hay sao? Khi đọc kinh không nên có thêm vọng tưởng, mà phải chân thành mỗi niệm, niệm đến tâm thanh tịnh thì trí tuệ tự nhiên sẽ khai mở, bỗng nhiên thông suốt, gọi là mở trí tuệ.
Nhưng khai mở trí tuệ thì không thể mong cầu. Bạn muốn cầu nhưng tại sao bạn không thể khai mở trí tuệ? Bạn vĩnh viễn không thể mở, vì sao vậy? Vì trong đầu bạn xen tạp thêm vọng tưởng trong đó rồi. Vọng thì không thể mở được trí tuệ chân thật. Khi vọng diệt hết rồi thì chân xuất hiện thôi. Đây là bí quyết của các đại đức xưa dạy bảo cho chúng ta học, quả thật đây là phương pháp hay. Cho nên đọc kinh bạn phải biết đọc, khi muốn hiểu thì đó không phải là đọc kinh. Mỗi một ngày bỏ ra một chút thời gian để chuyên nghiên cứu, đó không phải là đọc kinh mà là cầu giải. Nghe giảng cũng là cầu giải. Trong quá trình sơ học, chúng ta phải lấy đọc kinh là chủ đạo. Đọc kinh là cầu căn bản trí. Thời gian cầu giải có thể ít một chút. Cầu giải là giúp cho hậu đắc trí. Trên kinh Bát Nhã giảng: “bát nhã vô tri vô sở bất tri”, cho nên khi đọc tụng là chúng ta cầu vô tri. Vô tri là chân trí tuệ, bởi vì vô tri thì bạn mới có thể vô sở bất tri. Nếu bạn còn có tri thì có chỗ bất tri, vậy thì rất khổ, cho nên không thể có tri. Tâm địa phải thanh tịnh, thường thường là vô tri, vậy thì tốt. Tâm địa thanh tịnh một trần không nhiễm, khi nó khởi tác dụng thì vô sở bất tri, khi không khởi tác dụng thì tâm địa phải thanh tịnh, nhất vô sở tri, không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Bạn xem, đây là tự tại, đây gọi là chân thật hưởng thụ. Lúc trước, tiên sinh Đông Phương Mỹ đã nói: “học Phật là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh”. Hưởng thụ cái gì cao nhất? Trong lòng không có vọng tưởng, không có phân biệt, không có chấp trước. Không vọng tưởng, không có ưu tư, không có vướng mắc, bạn xem, tự tại dường nào! Tâm như hư không trùm khắp, đích thực là tâm trùm hư không lượng khắp pháp giới. Lục tổ đại sư nói: “vốn dĩ không một vật, làm gì nhiễm bụi trần”, đây là hưởng thụ cao nhất của nhân sanh. Người ở trong cái hưởng thụ này, các vị phải nên biết, là ở trong lòng chân thật thanh tịnh. Tướng tùy tâm chuyển, sinh lý của chúng ta hoàn toàn điều thích, điều hòa, hoàn toàn tương ưng với đại tự nhiên. Đây chính là khỏe mạnh sống lâu, người thế gian gọi là trường sinh bất lão. Việc này chân thật không giả. Trường sinh bất lão làm sao được vậy? Tâm địa thanh tịnh một trần không nhiễm, người như vậy thì nhất định trường sinh bất lão. Trong lòng có phiền não, có tham sân si mạn, có vọng tưởng thì trường sinh cũng bị lão hóa, họ không thể không già, họ sẽ bị già.
TƯ LƯƠNG TỊNH ĐỘ
Người giảng: Lão Hòa Thượng Tịnh Không
Thời gian: Tháng giêng năm 1995
Địa điểm: Tiểu Quốc Minh Nghĩa Hoa Liên
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Diệu Hiền cư sĩ