Thái Thượng Cảm Ứng Thiên – Thái Thượng Lão Quân
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là sách khuyến thiện tốt nhất trong kho tàng kinh điển của Đạo gia, được Ngài Ấn Quang Đại Sư hết sức tán thán.
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên là một quyển sách khuyến thiện tốt nhất trong kho tàng kinh điển của Đạo gia, được Ngài Đại Sư Ấn Quang hết sức tán thán. Đại Sư Ấn Quang một đời cung kính ấn tống Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, ước khoảng có hơn ba triệu bản. Hơn nữa, Lão Cư sĩ Lý Bỉnh Nam, Lão Pháp sư Tịnh Không cũng đều khích lệ người đời “khuyến đọc, khuyến hành, khuyến in, khuyến giảng”.
Quyển sách này cùng với Đệ Tử Quy, Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh là ba căn bản của Nho – Thích – Đạo, bất luận là ai cũng phải từ ba căn bản này mà học tập vun bồi cội rễ, như thế mới có thể đạt được thành tựu chân thật trong một đời.
Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không
Cuối triều Thanh đầu thời Dân Quốc, Ấn Quang Đại sư đặc biệt đề xướng pháp môn này. Cuối đời nhà Thanh, Ấn Quang Đại sư đang ở núi Phổ Đà, lúc đó Tri huyện Định Hải lên núi lễ thỉnh Ấn Quang Đại sư đến huyện Định Hải giảng kinh hoằng pháp. Đại sư là người Sơn Tây, giọng nói địa phương của Ngài rất khó nghe nên có trở ngại về mặt ngôn ngữ. Ngài liền phái một vị Pháp sư khác đến huyện Định Hải để giảng kinh. Pháp sư giảng kinh gì vậy? Hình như là giảng Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn. Chúng tôi từ trong tài liệu lịch sử xem thấy thông tin này thì rất kinh ngạc. Trưởng quan địa phương thỉnh Pháp sư đến giảng kinh, nhưng Pháp sư không giảng kinh Phật mà giảng kinh điển của Đạo giáo. Đặc biệt là cả đời Ấn Tổ cực lực đề xướng những loại sách như Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên, cho nên người đời sau phê bình Ấn Tổ rất nhiều.
Đây đều là tri kiến của phàm phu. Trong Phật pháp, tôi nghĩ rất nhiều đồng tu đều biết một câu nói như thế này: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên (người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên mãn)”, và có lẽ mọi người cũng nghe qua câu: “Pháp nào không phải là Phật pháp?”. Chúng ta thử nghĩ, hai câu nói này là ý gì? Thực tế cái gọi là thế pháp cùng Phật pháp là từ đâu mà phân biệt vậy? Từ nơi tâm của bạn mà phân biệt. Còn ở nơi pháp thì không có cái gì là thế gian pháp và xuất thế gian pháp cả, không có phân hai. Là từ nơi tâm của bạn mà phân chia. Nếu như tâm của bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì đó gọi là thế gian pháp, cho dù bạn học Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh thì đó cũng là thế gian pháp. Tại sao vậy? Vì không ra khỏi tam giới. Nếu lìa khỏi phân biệt chấp trước thì hết thảy pháp đều có thể liễu sanh tử, xuất tam giới. Cho nên, có pháp nào không phải là Phật pháp chứ? Chúng ta cần phải hiểu rõ đạo lý này.
Hôm qua, chúng tôi đi thăm Thiên Chúa giáo, có một vị tiên sinh hỏi tôi một vấn đề: “Trong Thiên Chúa giáo gọi là linh hồn, nếu so với pháp tánh mà Phật giáo nói thì sự khác biệt ở chỗ nào?”. Tôi nói với ông ấy một cách đơn giản là có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì gọi là linh hồn; không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì gọi là pháp tánh. Ông ấy liền lĩnh hội được. Có phải là cùng một sự việc hay không? Chỉ là một, nhưng một cái là có phân biệt chấp trước, còn cái kia là lìa khỏi phân biệt chấp trước.
Có phân biệt chấp trước thì mọi pháp đều có chướng ngại, rời phân biệt chấp trước thì vạn pháp viên dung. Cho nên, chúng ta phải biết, tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới là đồng một pháp tánh, kinh Hoa Nghiêm nói là một pháp thân, “mười phương ba đời chư Phật cùng đồng một pháp thân”. Câu nói này các vị nghe cũng đã thuộc lòng. Đã cùng đồng một pháp thân, bạn thử nghĩ xem, có pháp nào không phải là Phật pháp? Vậy Cảm Ứng Thiên sao có thể là ngoại lệ? Cũng là Phật pháp, huống hồ Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn, từ đầu đến cuối, mỗi câu mỗi chữ đều là sự trình bày của Ngũ Giới, Thập Thiện.
Ngũ Giới, Thập Thiện trong nhà Phật là pháp căn bản. Rời khỏi Ngũ Giới, Thập Thiện thì người này đang hành tà đạo. Bất luận là bạn tu học pháp môn nào, bất luận là sơ học, là A-la-hán hay là Đẳng Giác Bồ-tát, nếu bạn lìa khỏi Ngũ Giới, Thập Thiện thì pháp bạn đang hành là tà đạo, vậy thì sao gọi là Phật pháp được chứ? Muốn giảng Ngũ Giới, Thập Thiện được viên mãn, giảng được thực tế thì Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn là giáo trình tốt, nhất là ở giai đoạn hiện nay của chúng ta.
Ấn Quang Đại sư đã thấy rất rõ ràng, thế gian này có động loạn, có tai nạn, nếu muốn cứu vãn tai nạn chỉ có một phương pháp, đó là làm cho tất cả chúng sanh tỉnh ngộ. Chân thật giác ngộ, đoạn ác, tu thiện, cho dù không thể hoàn toàn hóa giải được tai nạn nhưng cũng làm cho tai nạn giảm nhẹ, thời gian của tai nạn được rút ngắn. Việc này chúng ta khẳng định có thể làm được.
Các vị đồng tu ở Đài Loan đến hỏi tôi, ở trong đại kiếp nạn, Đài Loan có thể tránh được không? Tôi nói với họ, nhất định là được. Người Đài Loan tạo tội nghiệp rất nặng, thế nhưng bạn nghĩ xem, người Đài Loan bắt đầu tạo tội nghiệp từ lúc nào vậy? Chẳng qua là hai mươi năm gần đây mà thôi. Các vị nhớ lại xem, hai mươi năm trước ở Đài Loan, người Đài Loan rất giữ gìn phép tắc. Nếu nói đến ba mươi năm trước thì phong khí của Đài Loan có thể nói là tốt nhất Đông Nam Á, nhân tâm thuần hậu hiền lương.
Người Đài Loan tạo tội nghiệp là trong vòng hai mươi năm gần đây, phong khí xã hội đã hoàn toàn thay đổi. Cho dù là tạo tội nghiệp, nhưng người tạo tội nghiệp không nhiều lắm, thời gian cũng không quá dài, huống hồ người Đài Loan niệm Phật rất nhiều, người thiện tâm cũng rất nhiều, cho nên dù có kiếp nạn cũng sẽ không lớn lắm. Người Nhật Bản tạo tội nghiệp rất nặng, có thể nói là vô cùng nặng. Họ tương lai khi gặp đại nạn thì quả báo mà họ nhận lấy phải nặng hơn Đài Loan gấp mười lần. Đây là chúng ta từ trong đạo lý của Cảm Ứng mà nói, trồng nhân thiện được quả thiện; tạo nhân ác nhất định bị ác báo, đây là chân lý của Cảm Ứng. Cho nên, Ấn Tổ cực lực đề xướng ba quyển sách này (Cảm Ứng Thiên, Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ Toàn Thư), đây là trí huệ chân thật, cứu vãn kiếp nạn của thế giới. Đại sư Ngài cả đời cực lực đề xướng, người thật sự hiểu được thì không nhiều. Ấn Tổ vãng sanh rồi, người có thể kế tục Ngài phát dương quang đại việc này thì càng ít.
Năm 1977, lần đầu tiên tôi tiếp nhận lời mời của các đồng tu Hồng Kông, đến bên ấy giảng kinh Lăng Nghiêm. Lần đó thời gian tôi ở lại Hồng Kông tương đối dài, ở bốn tháng. Hai tháng đầu, tôi ở thư viện Trung Hoa Phật Giáo của Đàm Hư Pháp sư, khu vực Cửu Long; hai tháng sau, ở đạo tràng của lão Hòa Thượng Thọ Dã, là giảng đường Quang Minh của Lam Đường đạo. Ở thư viện, tôi thấy được các sách của Ấn Quang Đại sư do Hoằng Hóa Xã xuất bản, nơi đó họ thâu tập được rất nhiều. Tôi có quan hệ rất mật thiết với Ấn Tổ, chúng tôi có quan hệ sư thừa. Thầy tôi, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của Ấn Tổ. Do đó, tôi đối với giáo huấn của Ấn Tổ cũng như sách của Hoằng Hóa Xã xuất bản liền tự nhiên có cảm tình rất sâu sắc. Trong thư viện nhỏ này đã cất giữ sách của Hoằng Hóa Xã, tôi thảy đều xem qua nên phát hiện ba quyển sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư và Liễu Phàm Tứ Huấn được Hoằng Hóa Xã in rất nhiều, sách in rất tốt.
Tại rất nhiều nhà sách, các vị đồng tu đều có thể xem thấy lời tiên đoán xưa của phương Tây. Có rất nhiều chủng loại, tôi đã xem qua mười mấy loại, đều nói năm 1999 là ngày tận thế. Đại kiếp nạn này có tính hủy diệt, hơn nữa thời gian kiếp nạn này rất dài, đại khái là kéo dài hơn hai mươi năm. Hơn hai mươi năm này bắt đầu từ năm 1990, đại khái phải đến năm hai ngàn mười mấy thì tai nạn này mới được xem là có thể qua được. Những sách đó của phương Tây chỉ nói những tai nạn này là do chúng sanh tạo ác nghiệp, Thượng Đế tức giận nên trừng phạt người thế gian, muốn sửa đổi lại thế giới này từ đầu. Quan niệm về số mệnh này còn xa mới bằng quyển Liễu Phàm Tứ Huấn và Cảm Ứng Thiên, vì những sách này mới có phương pháp cứu vãn, còn họ thì chỉ nói đến kiếp nạn mà không có biện pháp cứu vãn. Trong những tiên đoán của phương Tây có một loại gọi là Thánh Kinh Mật Mã, cái này so với lời tiên đoán còn cao minh hơn. Kết luận cuối cùng của Thánh Kinh Mật Mã nói là do lòng người, nếu như nhân tâm có thể quay đầu có thể hướng thiện thì kiếp nạn có thể được hóa giải. Thế nhưng chỉ nói một câu chung chung như vậy, còn làm thế nào để quay đầu, làm thế nào để đoạn ác tu thiện thì không nói một cách cụ thể, vẫn còn kém xa ba loại sách này. Ba loại này, không luận là nói về lý, không luận là nói về sự, đều nói rất thấu đáo.
Thực tế mà nói, chúng ta giác ngộ quá chậm, cũng là vì phước báo của chúng sanh thế giới này kém một chút. Vì sao nói chúng ta giác ngộ quá chậm vậy? Vì chúng ta không phiên dịch các loại sách này sang chữ nước ngoài, để lưu thông trên toàn thế giới. Chúng ta không hiểu được tầm quan trọng này. Nếu ba loại sách này có thể được dịch thành nhiều thứ tiếng, được lưu thông trên toàn thế giới với số lượng lớn thì sẽ có sự giúp đỡ rất lớn. Chúng ta không hiểu rõ, hiện tại biết được, thật đã không còn kịp nữa. Tuy “mất bò mới lo làm chuồng” nhưng chúng ta vẫn phải làm. Hy vọng mọi người phát tâm. Chúng tôi dẫn đầu để đi làm, tận khả năng đem nó dịch thành văn tự nước ngoài để có thể lưu thông đến toàn thế giới. Ai có duyên đọc được quyển sách này là người có phước. Hơn nữa, chúng ta có trách nhiệm, có sứ mạng khuyên bảo mọi người đọc tụng thọ trì, y giáo phụng hành, không những có thể chuyển biến nghiệp báo của chính họ mà còn có thể an định xã hội, giúp đỡ tất cả chúng sanh thế gian này tiêu tai giải nạn.
Từ Hồng Kông trở về Đài Loan, tôi đề xướng quyển Cảm Ứng Thiên Vựng Biên. Đến nay tôi đã tái bản rất nhiều lần, đại khái số lượng cũng gần một triệu bản. Năng lực của chúng ta rất có hạn nhưng cũng đã in Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, An Sĩ Toàn Thư và Liễu Phàm Tứ Huấn. Ở Đài Loan tôi đã đề xướng phiên dịch lưu thông, hơn nữa, ba loại sách này cũng đều được giảng qua mấy lần, bao nhiêu lần tôi không nhớ rõ. Lúc đó tôi giảng Cảm Ứng Thiên là dùng quyển này, cho nên bên trong sách có viết ghi chú, chỗ quan trọng đều được đánh dấu. Mấy ngày trước, khi các đồng tu yêu cầu tôi giảng, tôi liền tìm cho ra quyển này. Tìm được thì ít tốn công, bởi vì khi giảng giải tôi không cần phải chuẩn bị nữa. Hy vọng các đồng tu nên xem trọng vấn đề này, chân chính đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện. Ấn Tổ dùng ba loại này để bù đắp giới hạnh thiếu sót của chúng ta.
Đại Sư Ấn Quang khuyên thọ trì Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Trực Giảng
Tính người vốn thiện, nhưng do đối cảnh gặp duyên, không gắng lòng kiểm soát, dần dần khởi niệm chấp trước, sinh tâm yêu ghét, khởi các loại tình kiến, bản tính bị mai một đều vì những thứ như thế cả. Thế nên, thánh nhân thời xưa rủ lòng thương ban lời dạy dỗ, kỳ vọng người đời theo đó mà làm, nhằm hồi phục cái tâm vốn thiện. Lời dạy tuy có nhiều, nhưng đều không ngoài việc “cách vật trí tri, minh minh đức, chỉ ư chí thiện”.
Thế nào gọi là “cách vật”? “Cách” nghĩa là đánh một trận kịch liệt, ví như một người đương đầu với vạn người vậy. “Vật” là chỉ những phiền não vọng tưởng, theo thế tục gọi là dục vọng của con người. Người muốn chiến đấu với phiền não vọng tưởng tất phải có ý chí cương quyết, không sợ hãi, thì mới mong có hiệu quả thực sự. Còn như để tâm xoay chuyển theo vật dục, thì sao có thể gọi là “cách vật” được? Cái gọi là “trí” có nghĩa là mở rộng tâm lượng ra đến cùng cực. Còn “tri” chính là cái lương tri biết yêu thương cha mẹ, kính trọng bậc trưởng bối mà con người vốn sẵn có, chứ không phải do dạy, không phải do học mà có.
Thông thường con người trong một ngày không thường xuyên kiểm soát phản tỉnh bản thân, để tâm xoay chuyển theo vật dục, đến nỗi đánh mất đi cái lương tri biết yêu thương cha mẹ và kính trọng bậc trưởng bối. Há còn mong mở rộng cái lương tri ấy đến khắp thảy vạn sự vạn vật, hàm dưỡng tự tâm của chính mình ư!
Con đường mà Thánh nhân muốn người đời đi để đạt được cái đức sáng, đạt đến chỗ chí thiện, công phu căn bản nhất là phải bắt đầu từ “cách vật trí tri” mà làm. Không có gì diệu dụng hơn công phu này. Nhưng nếu muốn người thường theo đây mà tu trì, thì buộc phải có quy phạm chuẩn mực, mới hòng đạt được lợi ích. Tứ Thư, Ngũ Kinh chính là quy phạm chuẩn mực. Thế nhưng lời dạy trong những sách ấy mênh mông, tản mác, không có điểm hội tụ, khó mà có thể lĩnh hội được pháp. Những người không đọc sách nhiều sẽ càng vì lý do này mà không làm theo Kinh điển.
Sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên hàm nhiếp đầy đủ những lý luận về việc đón kiết, tránh hung, phước thiện, cho đến những đạo lý về mối họa dâm, lời kinh vang vọng đến thượng thiên, chấn động đại địa, hễ đọc đến tâm liền xúc động. Cái gì gọi là thiện? Cái gì gọi là ác? Người làm việc thiện sẽ được thiện báo thế nào? Kẻ làm điều ác sẽ bị ác báo ra sao?
Hiểu rõ được căn nguyên rồi, nhìn người sẽ vô cùng thấu suốt. Còn có kẻ ngu không chịu làm thiện, mặc tình làm điều xấu ác, lại dùng cái tâm tự tư tự lợi xem đó là điều hiển nhiên. Ngược lại, nay ta đã biết, những kẻ tự tư tự lợi sẽ bị tổn hại lợi ích rất lớn, rước lấy đại tai ương, há còn dám không khuyến khích nhau làm điều lương thiện để mong thoát họa, gặp phước hay sao? Vì lẽ đó, đây là cuốn sách rất ích lợi cho người đời. Các vị đại Nho thời xưa đa phần đều dựa vào cuốn sách này mà tu hành.
Vào thời nhà Thanh, ở đất Trường Châu, có ông Trạng nguyên Bành Ngưng Chỉ, từ nhỏ đã phụng hành theo sách này, cho đến khi ông làm quan đến chức Thượng Thư rồi mà mỗi ngày cũng đều thọ trì đọc tụng. Ông còn biên ra để tặng cho người khác, lấy tên là “Bộ sách mà Tể Tướng và Trạng Nguyên đều phải đọc”. Ông còn chú thích rằng: “Chẳng có nghĩa là đọc sách này có thể làm Trạng Nguyên, Tể Tướng, nhưng làm Trạng Nguyên, Tể Tướng nhất quyết không thể không đọc sách này”.
Tùy theo cách nhìn của người nhân, kẻ trí, thuận theo căn tính của mỗi người mà phát huy giá trị của sách đến mức thấu triệt. Luận theo lẽ cùng cực của sách, thì sẽ được thành Tiên. Nhưng nếu như dùng tâm đại Bồ-đề mà hành trì thì cũng có thể siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sinh tử, đoạn Tam Hoặc, chứng Pháp Thân, phước huệ viên mãn cho đến thành Phật đạo, huống hồ là quả nhỏ thành thần tiên.
Sách này được chú giải rất nhiều, nhưng chỉ có bản Tiên Chú của Nguyên Hòa Huệ Đống đời Thanh được xem là vô cùng tinh thâm, không phải là bậc hiền sĩ học cao hiểu rộng thì không thể đọc được. Ngoài ra còn có cuốn Vựng Biên, quả thật đây là cuốn sách dành cho người nho nhã lẫn kẻ bình dân, nhưng đối với phụ nữ và trẻ em thì văn từ e khó có thể lĩnh hội. Duy có sách Trực Giảng này có thể đem lại lợi ích cho hết thảy.
Lời văn của sách Trực Giảng này tuy đơn sơ, nhưng cách dùng từ ưu mỹ, đơn sơ nhưng không thô kệch, dễ cảm động lòng người. Cư sĩ Hương Đào đã xuất tiền in ấn, quảng bá, cùng với sự trợ giúp của một vài vị cùng chung chí hướng, nguyện cuốn sách này được phổ biến ra khắp cõi hoàn vũ. Nếu có được vài người tu Thập Thiện, trong nhà vẹn tròn câu hiếu đễ, biết việc họa phúc là do con người tự rước lấy, việc thiện ác đều có báo ứng cả, thì có ai chịu làm ác để rước lấy họa đâu?
Nếu nếp sống xã hội đều theo một quy tắc là làm thiện để được thiện báo, thì lễ nhượng sẽ hưng khởi, nhân dân an lạc, thiên hạ thái bình, vĩnh viễn sẽ không còn nạn can qua (chiến tranh). Nguyện những người có tài lực và trí lực, hoặc in ấn số lượng nhiều để lưu thông, hoặc thuyết pháp diễn giảng, khiến cho những người vẫn chưa mất đi lương tri càng cố gắng giữ lấy cái tâm thuần chân; còn đối với kẻ đã mất đi lương tri rồi sẽ mau chóng khôi phục lại cái tâm sẵn có ấy. Công đức ấy kể sao cho xiết!
Năm Mậu Thìn 1928.
Mời quý bạn đọc sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên tại file PDF dưới đây.