Thân Như Lai vi diệu đoan nghiêm, thế gian không ai sánh kịp được, sáng ngời vô lượng khắp mười phương, nhật nguyệt hỏa châu lu mờ cả.
Đoạn kinh văn sau là Bồ Tát Pháp Tạng “tán Phật”, “phát nguyện”, Ngài là tấm gương của chúng ta, chúng ta phải nên học tập với Ngài. Hai câu phía trước là “tán Phật”, tiếp theo sau từ câu thứ ba đến câu thứ chín là “phát nguyện”, câu sau cùng là thỉnh Phật chứng minh cho Ngài. Trước tiên chúng ta xem Ngài tán Phật.
Kinh Văn:
Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm
Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng
Quang minh vô lượng chiếu thập phương
Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu.
Dịch:
Thân Như Lai vi diệu đoan nghiêm
Thế gian không ai sánh kịp được
Sáng ngời vô lượng khắp mười phương
Nhật nguyệt hỏa châu lu mờ cả.
Đây là câu thứ nhất. Các vị xem, quyển này là quyển của “Khoa Hội”, khoa phán của chúng ta là “quang tướng vô đẳng”, bài kệ này khen quang minh tướng hảo của Phật. Chúng ta thường hay đọc kệ tán Phật là “tướng hảo quang minh vô đẳng luân”, chính là một câu này. Ở ngay đây là bốn câu thì đương nhiên nói được càng rõ ràng hơn: “Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm”.
Pháp Tạng ngay chỗ này không có nói Thế Tôn vi diệu sắc đoan nghiêm, cũng không có nói Phật Đà vi diệu sắc đoan nghiêm, Ngài dùng “Như Lai”, cái ý này rất sâu. Nếu như nói là Chư Phật, nói là Thế Tôn, chúng ta xem thấy chữ này, chúng ta là phàm phu, chúng ta không có phần, chỉ có Phật mới có phần, chúng ta không có phần. Nếu nói Như Lai thì mọi người chúng ta đều có phần.
Như Lai là nói cái gì? Như Lai là nói tự tánh, chân như bổn tánh, đây là trên đại kinh thường dùng. Người Trung Quốc đọc kinh Kim Cang rất nhiều. Kinh Kim Cang có lúc nói chư Phật, có lúc thì nói Như Lai. Phàm hễ gọi chư Phật là từ trên tướng mà nói, phàm hễ gọi Như Lai là từ trên tánh mà nói. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh gọi Như Lai.
Hay nói cách khác, cái ý này chẳng phải là ngầm bao hàm lấy, Thế Tôn ở trong phẩm Xuất Hiện của Hoa Nghiêm nói: “tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng Như Lai”, chẳng phải là cái ý này hay sao? Cho nên không dùng Phật Đà, không dùng chư Phật mà dùng Như Lai.
“Vi” là tinh vi, “diệu” là diệu thiện, đó là tán thán sắc tướng. “Sắc” chính là sắc thân. Tướng hảo, vẻ đẹp của thân tướng tinh vi diệu thiện đến cùng tột, đoan chánh trang nghiêm, không tìm ra một chút kém khuyết trong tướng hảo, đây là đại viên mãn.
Phía sau là dùng thí dụ để so sánh: “Nhất thiết thế gian vô hữu đẳng”. “Tất cả thế gian”, hữu tình thế gian thì không cần phải nói, hữu tình thế gian bao gồm mười pháp giới, Phật Bồ Tát trong mười pháp giới đều không thể so sánh. “Đẳng” là bình đẳng với Ngài, không có thì không thể bình đẳng với Ngài. Trong đây còn có ý nghĩa rất sâu, sâu đến chỗ nào vậy? Đoạn kinh văn phía sau nói ra, chỗ này là hàm chứa trong đó không có nói ra, ẩn chứa ở ngay trong đó, phía sau lại tiết lộ ra.
Mỗi một người vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho dù là hạ hạ phẩm vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thì sắc tướng của bạn không hề khác biệt với Phật A Di Đà. Chẳng phải câu nói này chính là tán thán người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc hay sao? Nếu như chúng ta muốn tu đắc “Như Lai vi diệu sắc đoan nghiêm” thì không phải là việc dễ dàng.
Trong kinh này có vô số so sánh, so sánh đến phước báo của Đại Phạm Thiên Vương. Đại Phạm Thiên Vương cũng có 32 tướng 80 vẻ đẹp. Tuy là đầy đủ 32 tướng 80 vẻ đẹp, nhưng so với ứng thân của Thế Tôn vẫn còn kém rất xa.
Thế nhưng các vị phải nên biết, thế giới Cực Lạc là pháp giới nhất chân, không phải ứng thân của thế gian. Cái thế giới đó, trên kinh thường nói, Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, thể chất của thân đều là “tử ma chân kim sắc thân”. Chúng ta cần phải nhận biết rõ ràng, sau đó đối với cái túi da thối này sẽ không ham tiếc, cái thứ này phải sớm ngày xả bỏ nó để đổi một cái thân “tử ma chân kim sắc thân”, để đổi một khuôn mặt “vi diệu sắc đoan nghiêm”, không chỉ 32 tướng 80 vẻ đẹp, vừa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền đổi khác.
Cho nên mọi người nhất định phải hiểu được, nói người chết rồi, quyết định không có chết, chỉ là thay đổi hình sắc mà thôi, làm gì mà chết? Không phải chết, thay đổi hình sắc mà thôi. Người thông minh nhất, người thế gian đệ nhất đẳng, đem diện mạo của mình đổi thành diện mạo của Phật. Đây là mật nghĩa hàm chứa trong bài kệ, chúng ta phải biết tranh thủ. Hai câu này là nói sắc tướng.
Hai câu sau là nói quang minh: “Quang minh vô lượng chiếu mười phương”. Loại quang minh này là ánh sáng của thân, không phải nói phóng quang. Thân quang của Phật là vô lượng vô biên biến chiếu mười phương pháp giới, ánh sáng này là trí tuệ Bát Nhã vốn đủ trong tự tánh, là ánh sáng vốn đủ trong tự tánh, không phải từ bên ngoài đến. Chứng được tâm tánh viên mãn thì ánh sáng của tánh đức làm gì mà không chiếu đến mười phương chứ?
Phía sau cũng là thí dụ: “Nhật nguyệt hỏa châu giai nặc diệu”. Hiện tại chúng ta ở thế gian này đã thấy được ánh sáng thù thắng nhất cũng không thể hơn được mặt trời, đây là mắt thịt chúng ta có thể thấy được, kế đến là mặt trăng. “Hỏa châu”, “hỏa” là đại biểu hỏa diệm, đều là tượng trưng cho ánh sáng. “Châu”, bảo châu cũng phát ra ánh sáng. Đây là nói thế gian này tất cả thể ánh sáng phát ra, ở trong quang minh tự tánh nó đều không thể hiển thị ra được.
“Nặc diệu”, nặc chính là chiếu diệu của Ngài, quang huy của Ngài không có. Giống như chúng ta vào ngày trời trong xanh, khi mặt trời không có mây che khuất thì ánh mặt trời rất xán lạn, chúng ta ở dưới ánh mặt trời, dù có thắp lên hàng ngàn ánh sáng đèn điện thì ánh đèn cũng không hiện ra được, cũng không thấy được ánh đèn, đây là ý nghĩa của “nặc diệu”.
Tướng hảo quang minh đó là đạo lý gì? Phật nói với chúng ta “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Ở trong cảnh giới của tự tánh này, chỉ có duy tâm sở hiện, cho nên cảnh giới hiện ra gọi là pháp giới nhất chân.
Các vị phải nên biết, kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Viên Giáo Sơ Trụ đã lìa khỏi tâm ý thức, không còn dùng tâm ý thức, họ đã xả bỏ “duy thức sở biến”, họ không còn dùng tâm ý thức, cho nên pháp giới là nhất chân.
Tất cả chúng sanh hữu tình chưa lìa khỏi tâm ý thức, phàm phu sáu cõi, pháp giới bốn thánh đều chưa lìa khỏi tâm ý thức, đều là dùng tâm ý thức. Trong pháp giới bốn thánh dùng được chánh, cũng chính là nói tâm ý thức mà họ dùng tương ưng với tánh đức pháp tánh, chỉ có thiện không có ác, tương ưng với thiện.
Phàm phu sáu cõi dùng tâm ý thức dùng được bất thiện, hay nói cách khác, không tương ưng với thiện pháp, tương ưng với tham-sân-si-mạn, tương ưng với pháp ác, như vậy mới đem pháp nhất chân biến thành mười pháp giới, đạo lý chính ngay chỗ này. Thế nhưng các vị phải nên biết, thức không lìa khỏi tâm tánh, thức nương tâm mà khởi, lìa khỏi tâm làm gì có thức? Thức không lìa tâm. Sau đó chúng ta liền biết được, sở biến bất ly năng biến, đây chính là nói rõ mười pháp giới không lìa pháp giới nhất chân.
Pháp giới nhất chân là tâm hiện, mười pháp giới là thức biến, thức không lìa tâm, mười pháp giới không ngoài pháp giới nhất chân. Thế nhưng tất cả chúng sanh mê mất đi tự tánh, mười pháp giới tuy là không rời khỏi pháp giới nhất chân, nhưng thọ dụng của pháp giới nhất chân họ không có được. Không chỉ không có được, họ thấy cũng không thấy được.
Thế nhưng Bồ Tát trong pháp giới nhất chân đối với những chúng sanh trong mười pháp giới thì rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo; đối với hoàn cảnh đời sống của chúng ta, tất cả khởi tâm động niệm tạo tác của chúng ta, các Ngài thảy đều biết hết. Những sự việc này ở trong bộ kinh này đều có thuyết minh tường tận. Chúng ta thể hội được đạo lý này thì đối với những sự tướng mà Phật đã nói, chúng ta liền tin tưởng.
Người hiện nay không tin tưởng nhân duyên quả báo, vì sao họ không tin tưởng? Không hiểu được đạo lý này, nếu như bạn chân thật hiểu rõ đạo lý của “tâm hiện thức biến”, bạn liền tin sâu không hoài nghi đối với nhân quả. Cho nên nói: “Vạn pháp giai không, nhân quả bất không”.
Vì sao nhân quả bất không? Nhân quả chuyển biến bất không, nhân quả tiếp nối bất không, hiện tượng của nhân quả chuyển biến từng giây, loại hiện tượng này thì ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta không thấy được, hơn nữa tốc độ chuyển biến rất nhanh, sát na chuyển biến. Nói sát na là đã nói quá dài rồi, sự việc này chúng ta để lại phần sau quyển một kinh Hoa Nghiêm sẽ nói đến, thực tế mà nói là không thể nghĩ bàn.
Trích đoạn trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 68