Với người làm mẹ, người mẹ cần phải tâm bình khí hòa, chân thành, cung kính, thanh tịnh, bình đẳng, khởi tâm động niệm đều ảnh hưởng đến thai nhi.
Khoa Chú quyển trung, trang 56:
Phục thứ Phổ Quảng, nhược vị lai thế trung Diêm Phù Đề nội, Sát Lợi Bà La Môn trưởng giả cư sĩ nhất thiết nhân đẳng, cập dị tánh chủng tộc hữu tân sản giả, hoặc nam hoặc nữ thất nhật chi trung, tảo ư độc tụng thử bất tư nghị kinh điển, cánh vi niệm Bồ Tát danh khả mãn vạn biến, thị tân sanh tử hoặc nam hoặc nữ, túc hữu ương báo tiện đắc giải thoát, an lạc dị dưỡng thọ mạng tăng trưởng, nhược thị thừa phước sanh giả chuyển tăng an lạc cập dữ thọ mạng.
復次普廣。若未來世中閻浮提內。剎利婆羅門長者居士一切人等。及異姓種族有新產者。或男或女七日之中。早與讀誦此不思議經典。更為念菩薩名可滿萬遍。是新生子或男或女。宿有殃報便得解脫。安樂易養壽命增長。若是承福生者轉增安樂及與壽命。
Lại nữa, này Phổ Quảng, nếu trong đời vị lai, nơi cõi Diêm Phù Ðề, trong hàng Sát Lợi, Bà La Môn, trưởng giả, cư sĩ, hết thảy các người và những chủng tộc dòng họ khác, có người mới sinh được con trai hoặc con gái, trong vòng bảy ngày, sớm vì đứa trẻ đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Bồ Tát đủ một vạn biến, thì đứa trẻ mới sinh đó, hoặc trai hoặc gái, nếu đời trước có ương báo thì đều được giải trừ, lại thêm yên ổn, vui vẻ, dễ nuôi, thọ mạng tăng trưởng, còn nếu nương nơi phước lực mà thọ sanh, thì nó càng được an vui hơn và sống lâu hơn.
Đoạn kinh này nói về lúc sinh nở cần phải tu phước như thế nào? Y học hiện đại phát triển hơn ngày xưa rất nhiều, việc sinh nở cũng an toàn, yên tâm hơn ngày xưa. Vào thời xưa, đặc biệt là ở nông thôn, những khu vực lạc hậu kém phát triển, sinh nở thật sự là việc liên quan đến mạng sống con người, cho nên đức Phật đã đặc biệt quan tâm nhắc nhở, dạy chúng ta phải tu học thế nào, làm sao để đảm bảo bình yên cho mẹ con.
Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta, người trong một gia đình quan hệ vô cùng mật thiết, chắc chắn phải có nhân duyên sâu sắc, không phải tụ chung một cách ngẫu nhiên. Nhân duyên đó rất phức tạp, đức Phật đã phân chia nhân duyên phức tạp đó quy thành bốn loại, đó chính là điều mà trong kinh thường nói: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ, vì thế mà quy tụ thành người một gia đình. Cha con, anh chị em cũng không thể tách rời quan hệ này, do nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp mới trở thành người một nhà.
Ngạn ngữ cũng thường nói, không phải oan gia không chung nhà. Câu nói này rất có lý. Nhưng sau khi giác ngộ, người cả nhà sẽ trở thành quyến thuộc pháp lữ ngay, như thế thật không gì thù thắng hơn. Không giác ngộ thì gia đình sẽ liên tiếp xảy ra ân oán báo ứng lẫn nhau, đó thật là khổ nói không ra lời. Tất nhiên trả ơn thì hiếm mà báo oán thì nhiều, trả nợ thì ít nhưng đòi nợ thì nhiều, nên cả đời làm người trên thế gian này, gọi là việc không vừa ý thường có đến tám chín. Đây đều là sự thật chính chúng ta đã trải qua, chính mắt nhìn thấy. Con cái đến với chúng ta, nhất định phải hiểu nhân duyên đó có từ nhiều đời nhiều kiếp.
Quả báo luôn bình đẳng, bất kể sang hèn giàu nghèo. Như trong kinh đã ví dụ, Sát lợi là hoàng tộc của Ấn Độ xưa, Bà la môn là giai cấp tôn giáo có địa vị rất cao trong xã hội lúc đó, Trưởng giả cư sĩ là người có phước báo nhiều, tiếp theo là tất cả mọi người và các họ tộc khác, phạm vi này rất rộng, trong đó có đầy đủ tất cả bốn giai cấp của nước Ấn Độ xưa.
Người Á đông thì thường nói phú quý bần tiện, bất kể thân phận thế nào, không luận địa vị ra sao, việc sinh nở là không thể tránh khỏi được. Hơn nữa, đau đớn trong sinh nở là hoàn toàn bình đẳng, người giàu có thì chăm sóc có phần đầy đủ hơn, người nghèo khó thì chăm sóc kém hơn, nói cho cùng, cái khổ này không thể nào tránh được. Thế nên Phật dạy cho chúng ta phương pháp, trong vòng bảy ngày, sớm đọc tụng bộ kinh bất khả tư nghì này. Đọc sớm, tốt nhất là nếu như người trong nhà có hiểu biết về Phật pháp, biết tiếp nhận lời dạy của Đức Phật, thì nên đọc tụng vào thời kỳ nào?
Khi biết có thai liền nên đọc, mỗi ngày đọc tụng một bộ Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hoặc niệm nghìn câu danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, cần phải dùng tâm chân thành cung kính để tụng niệm thì phước báo sẽ vô cùng to lớn. Cho dù đứa bé trong thai là đến để báo oán, là oan gia trái chủ, bạn có thể chăm sóc đứa bé như thế thì oan kết này cũng được hóa giải, bạn đã có ân với nó rồi thì nó không báo oán nữa, mà đến báo ân. Chuyển biến phải ngay từ đầu. Trong kinh đã nhấn mạnh, chậm nhất cũng phải vào bảy ngày trước khi sanh, đương nhiên là càng sớm càng tốt. Khi chúng ta hiểu được lý lẽ này, biết được phương pháp này, thì tốt nhất đọc tụng ngay khi biết có thai, liền y theo phương pháp này mà tu hành.
Với người làm mẹ, người mẹ cần phải tâm bình khí hòa, chân thành, cung kính, thanh tịnh, bình đẳng, khởi tâm động niệm đều ảnh hưởng đến thai nhi. Điều này, nếu nói theo lý luận khoa học hiện đại, thì mọi người càng dễ hiểu hơn. Đây thuộc về hiện tượng của động sóng. Trong Phật pháp đã nói, như thế giới Tây Phương Cực Lạc, tất cả vạn pháp đều phát ra ánh sáng, không những con người có thể phóng quang, vạn vật đều phóng quang. Thật ra Cực Lạc thế giới ánh sáng soi khắp, thế gian này chúng ta lại vì sao không phóng quang chứ? Giả như thế gian này chúng ta bao gồm tất cả vạn vật, không như thế giới Tây Phương Cực Lạc ánh sáng chiếu khắp như thế, thì Nhất Chân Pháp Giới sẽ thành mâu thuẫn. Làm gì có nơi này đặc biệt sáng hơn, nơi khác lại không có ánh sáng, làm sao giải thích cho thông suốt đây.
Nhất định phải hiểu, Nhất Chân Pháp Giới bao gồm cả pháp giới của chúng ta trong đó, không phải nói sau khi rời khỏi pháp giới này của chúng ta, còn có riêng một Nhất chân pháp giới khác, không có đạo lý này. Thế thì trên kinh nói, thực trạng đó phải hiểu như thế nào? Nơi đó có ánh sáng soi khắp, mọi người đều đích thân cảm nhận được. Còn nơi chúng ta cũng ánh sáng soi khắp, nhưng chúng ta không có cảm giác là chỉ vì lý do này mà thôi, không phải không có ánh sáng. Thế tại sao chúng ta không có cảm giác? Vì tâm chúng ta không thanh tịnh, tâm quá loạn, vọng niệm quá nhiều nên không thể cảm nhận được cảnh giới như thế, chứ không phải không có. Cực Lạc thế giới và Hoa Tạng thế giới không hai không khác.
Nói theo vật lý học hiện đại thì càng dễ lý giải hơn. Ánh sáng là gì? Ánh sáng là hiện tượng hoạt động của sóng động, chỉ cần có động thì có sóng. Nhà khoa học hiện tại gọi là sóng, trong nhà Phật gọi là ánh sáng, ánh sáng chính là sóng. Thế nên bao gồm tất cả vật chất, hiện nay đều biết vật chất đã hình thành như thế nào. Phân tích đến tận cùng, thì là nguyên tử, proton, neutron, từ những hạt cơ bản như thế này. Trạng thái của nó như thế nào? Là động. Đức Phật không cần có những thiết bị khoa học hiện đại, Đức Phật đã nhìn thấy rõ ràng, những thiết bị tiên tiến nhất hiện nay chưa thể quan sát được, đức Phật vẫn nhìn thấy rõ ràng, đức Phật nói cho chúng ta biết hiện tượng này. Thế Tôn thuyết giảng một cách uyển chuyển tường tận, nói ra thực tướng của sự vật, nhưng không có người tin, không có ai chấp nhận dù cách nói của đức Phật rất vi diệu, rất sâu sắc, chúng ta gọi là phương tiện khéo léo.
Khi Đức Phật nói về hiện tượng vật chất, đã nói rõ cho chúng ta biết bốn nguyên tắc là đất, nước, gió, lửa. Đất, nước, gió, lửa là gì? Chính là vật chất cơ bản, là hạt cơ bản mà khoa học hiện nay đang nói.
Đất là gì? Chính là tướng trạng của vật chất, cái chúng ta có thể nhìn thấy thì gọi là đất. Đất đại diện cho vật chất. Mắt trần chúng ta không thể nhìn thấy hạt, dưới kính hiển vi có độ phân giải cao thì có thể nhìn thấy được tướng trạng của hạt này. Đức Phật không cần thiết bị gì cả, mắt của đức Phật là ngũ nhãn viên minh, Ngài có thể thấy, phàm phu chúng ta không thể nhìn thấy, mắt của Ngài bén nhạy hơn chúng ta rất nhiều, Ngài nhìn thấy được hiện tượng này. Vậy thì vật chất cơ bản đã cấu thành như thế nào? Luôn mang nguồn điện, cho nên hỏa đại. Hỏa đại chính là điện dương, thủy đại là điện âm, ngày nay chúng ta gọi là có nhiệt độ, có ẩm độ.
Còn Gió là gì? Là trạng thái hoạt động, không phải đứng yên bất động. Đây là nói về vật chất cơ bản. Hết thảy tất cả hiện tượng vật chất, bao gồm tổ chức tế bào trong con người chúng ta, đều là hiện tượng như thế. Quý vị nghĩ xem, làm gì có hiện tượng đứng yên? Hạt cơ bản luôn luôn hoạt động. Động thì sinh ra sóng. Phạm vi năng lượng của sóng rộng đến mức nào? Nói cho quý vị biết, lý thuyết và thực tế đều chứng minh, năng lượng của sóng lan rộng tận hư không biến pháp giới. Bây giờ quý vị nghĩ xem, trời đất vạn vật, chúng sanh đông như thế, khởi tâm động niệm, thì sóng đó càng hiển thị rõ ràng, phạm vị ảnh hưởng càng rộng hơn. Sóng của vật chất còn tương đối nhỏ, tương đối hẹp, bạn hiểu được không gian đời sống chúng ta, cái sóng đó phức tạp đến dường nào?
Trong Kinh Phật dạy, thiện niệm, thiện tâm thì sóng phát ra ổn định nhẹ nhàng, sau khi bạn tiếp xúc sanh tâm hoan hỷ, có cảm giác dịu dàng thoải mái. Còn ác niệm, ác tâm thì cái sóng động này rất mãnh liệt, khi tiếp xúc với sóng này sẽ thấy khó chịu cả người. Bây giờ có người gọi hiện tượng như thế là từ trường, cũng được, gọi là từ trường cũng đúng. Người luyện khí công ở Trung Quốc nói về khí, cũng cùng một trạng thái như thế mà thôi. Bạn gọi là khí cũng được, trong Phật pháp gọi là ánh sáng, gọi là sóng động, gọi là từ trường, cũng cùng một trạng thái thôi.
Vậy thì do đây có thể biết, khi thần thức đến đầu thai, nó có ý niệm. Nó có ý niệm thì nó có sóng, cho nên khởi tâm động niệm, hành động của người mẹ đều có ảnh hưởng đến nó. Do đó, ngày xưa, Trung Quốc đã chú ý đến thai giáo, đạo lý cũng chính ngay chỗ này.
Khi chúng ta đọc về thai giáo trong sách cổ ghi lại, đã nói một số nguyên lý, nhưng nói không được tường tận chi tiết, không được thấu đáo, đọc xong còn nửa tin nửa ngờ, không thấy được tính nghiêm trọng của ảnh hưởng này, không hề biết. Hôm nay chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật về sóng, thì biết được khởi tâm động niệm đều ảnh hưởng đến thai nhi rất nhiều rất lớn. Cho nên trong thời gian người mẹ mang thai, nếu khởi tâm động niệm đều là thiện, đều là thanh tịnh, thì thai nhi sẽ nhận được rất nhiều lợi lạc. Người nào cũng mong muốn con cái tốt, là con thảo cháu hiền. Làm thế nào dạy chúng? Ngay trong lúc mang thai, chính bản thân chúng ta phải thực hành tận hiếu, thì sóng hiếu đó sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Chúng ta tu tịnh, tu thanh tịnh, tu phước, như vậy mới thật sự gieo cho thai nhi hạt giống tốt sau này. Điều này không phải không có đạo lý, làm vậy không có gì mê tín cả.
Vì sao đức Phật khuyên chúng ta đọc bộ kinh này? Vì bộ kinh này là hiếu kinh, tinh thần đã nói trong bộ kinh này, tóm lược lại có bốn chữ là hiếu thân tôn sư. Hiếu thân tôn sư là cương lĩnh dạy học của thế xuất thế gian, cũng là căn bản nền tảng.
Chúng ta tu học Phật pháp đại thừa bắt đầu từ đâu? Chính từ Bồ Tát Địa Tạng. Địa là tâm địa, tạng là bảo tàng. Bảo tàng quý giá trong tâm địa là gì? Là trí tuệ vô lượng, đức năng vô lượng. Đức là phước đức, năng là kỹ thuật năng lực, tài nghệ vô lượng, đều là bảo tàng vốn có trong tự tánh của chúng ta, vì thế mà gọi là Địa Tạng. Bảo tàng chôn ở dưới đất, như chúng ta thường gọi là vàng bạc, khoáng sản, nếu không biết khai thác, chôn ở dưới đất thì tuy có nhưng không thể hưởng dùng.
Quý vị cần phải biết khai thác. Dùng cách nào để khai thác? Khai thác bảo tàng trong tự tánh, nhất định phải dùng đến tánh đức, phải dùng công cụ tương ứng với bảo tàng thì mới khai thác ra được. Điều thù thắng nhất trong tánh đức chính là hiếu kính. Có hiếu và kính thì mới có thể khai thác ra bảo tàng trong tự tánh. Cho nên khi tu học Phật pháp đại thừa phải bắt đau từ đâu? Trước học Địa Tạng, bắt đầu học từ Ngài, học hiếu đạo trước. Từ trong hiếu đạo xây dựng sư đạo. Phật pháp là sư đạo, mà sư đạo thì được xây dựng trên nền tảng hiếu đạo….
PHƯƠNG PHÁP DẠY CON KHI MANG THAI
PHƯƠNG PHÁP DẠY CON KHI MANG THAI
(Trích từ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Tập 24)
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Học Hội Tịnh Tông Singapore
Thời gian: Tháng 05-1998
Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Diệu Hiền cư sĩ