Chữ Hiếu là pháp môn đại tổng trì của tất cả pháp
Phật pháp là xây dựng ở trên nền tảng của đạo hiếu. Chữ Hiếu này, nếu dùng Phật pháp để nói thì chính là pháp môn đại tổng trì của tất cả pháp, cứu cánh viên mãn.
Hai chữ “Trung Hiếu” phần trước đã giới thiệu giản lược về chữ “Trung” rồi. Trong Vựng Biên trích dẫn chuyện tận trung cũng chính là nói làm sao đem “Trung” thực tiễn vào trong đời sống, thực tiễn vào trong công việc, thực tiễn vào trong đối nhân xử thế tiếp vật. Sách đã nêu ra rất nhiều điển hình. Những điển hình này nêu hoài không hết, lý sự cũng nói mãi không xong. Quí vị có thể từ những điển hình này mà thể hội.
Chúng ta tiếp tục bàn đến chữ “Hiếu”. “Hiếu” là căn bản, “Trung” là khởi dụng. Trong Vựng Biên giảng về “Hiếu”, đoạn thứ nhất là lấy “Hiếu Đễ Luận” của tiên sinh Nhan Quang Trung. Đoạn này nói rất hay, vô cùng gần gũi với tư tưởng của nhà Phật. Ông nói: “Có người nói hiếu đễ là gốc của lòng nhân” là trong Luận Ngữ nói. Mạnh Tử nói: “Đạo của Nghiêu Thuấn chỉ có hiếu đễ mà thôi”. Đây là một người học sách Nho, vừa mở đầu liền lấy cách nói của Khổng Mạnh làm y cứ, sau đó đem nó sáng chế ra. “Hiếu đễ, quan thiệp thậm đại”. Quan là quan hệ, thiệp là đề cập đến. Phương diện mà nó liên quan đến rất lớn, đã sâu lại rộng.
“Là ngang, là dọc”. Đây là từ trên bề mặt.
“Từ xưa đến nay”. Đây là từ trên thời gian mà nói.
“Không bờ, không mé”. Cách nhìn này chính xác, đều là sự vật này.
Như thế cần phải biết hiếu đễ là gì, cội rễ của hiếu đễ là gì? Đó là cái khí của con người ở giữa trời đất mà thôi. Chúng tôi chỉ đọc đến chỗ này, phần sau quí vị tự mình đọc.
Chữ “Hiếu” cũng thuộc về hội ý, khiến bạn nhìn thấy ký hiệu này liền thể hội ý nghĩa ở bên trong. Nửa phần trên của nó là chữ “Lão”, nửa phần dưới là chữ “Tử”; “Lão” là đại biểu cho thế hệ trước, “Tử” là đại biểu cho thế hệ sau. Ý nghĩa của chữ này là thế hệ trước với thế hệ sau hợp thành một thể, đây gọi là hiếu. Nếu như thế hệ trước với thế hệ sau chia rẽ, vậy là bất hiếu. Người phương Tây nói có hố ngăn cách, hố ngăn cách là chia rẽ. “Lão” và “Tử” chia rẽ là bất hiếu. Người Trung Quốc không có cách nói này. Bạn hãy nghĩ đến chỗ sâu xa nữa, thế hệ trước còn có thế hệ trước nữa, quá khứ vô thủy; thế hệ sau còn có thế hệ sau nữa, vị lai vô chung. Vô thủy vô chung, Nhan tiên sinh gọi là “từ xưa đến nay, không bờ không mé”. Bạn biết được sự liên hệ này, sau đó bạn quan sát tiếp đến phương diện ngang và dọc, chính là nhà Phật nói tận hư không khắp pháp giới, là dùng ký hiệu này để đại biểu. Hư không pháp giới, một pháp cũng không sót, bao hàm một cách viên mãn ở trong đó. Trong các buổi giảng tôi đã từng nói không chỉ một lần, lời tôi nói dễ hiểu, khẳng định hư không pháp giới tất cả chúng sanh là chính mình. Đây chính là ý nghĩa của Hiếu.
Tất cả chúng sanh trong hư không pháp giới, “tất cả chúng sanh” này phạm vi rất rộng, chúng sanh hữu tình là nói người và động vật, còn chúng sanh vô tình là thực vật, khoáng vật, thậm chí là hiện tượng tự nhiên. Ý nghĩa của chữ chúng sanh này rất rộng lớn, phàm cái gì do nhiều duyên hòa hợp mà sinh ra đều gọi là chúng sanh. Tất cả chúng sanh đều là chính mình. Tôi nói lời này là có căn cứ, đây là Phật nói. Tuy Phật không nói cách này, nhưng ý nghĩa giống nhau, chúng ta “y nghĩa bất y ngữ” là đúng rồi. Phật ở trong Kinh nói: “Hư không pháp giới duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm là chân tâm của mình, là bản tánh của mình. Thức là tác dụng của tâm, là tâm khởi tác dụng. Cho nên, chữ “Hiếu”này, nếu dùng Phật pháp để nói thì chính là pháp môn đại tổng trì của tất cả pháp, cứu cánh viên mãn. Chúng ta đối với khái niệm lý tánh của chữ này phải rõ ràng, phải sáng tỏ thì sau đó mới biết cần phải học hiếu, hành hiếu như thế nào để hy vọng đạt đến tận hiếu. Chữ hiếu làm được viên mãn rồi thì liền thành Phật ngay, Phật quả cứu cánh của viên giáo thì đạo hiếu mới làm được viên mãn. Bồ-tát đẳng giác còn có một phẩm vô minh chưa phá, đạo hiếu vẫn còn khiếm khuyết, vẫn chưa thể làm được viên mãn. Từ đó cho thấy, Phật pháp là xây dựng ở trên nền tảng của đạo hiếu. Trong kinh luận, Bồ-tát giới cũng nói như vậy. Chúng ta cần thể hội cho được, cần nhận biết được. Đây là đại căn đại bản của Phật pháp….
Trích trong:
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 20