Pháp Vi Diệu
https://youtu.be/4ift4oFsiBE

Chuyển bánh xe pháp, đem pháp âm giác ngộ thế gian

Thường dĩ pháp âm là pháp gì vậy? Phía sau nói giác, pháp này là pháp giác, giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.

Tướng thứ bảy là “Chuyển pháp luân”.

Tại vì sao công tác giáo dục xã hội phải gọi là chuyển pháp luân? Pháp luân là thí dụ. Hiện tại và thời xưa, chúng ta biết được vào thời đại cổ xưa, mỗi một dân tộc đều có một đồ án để làm tiêu chí cho dân tộc đó, nhà sử học gọi là Tô-tem; người hiện tại chúng ta buôn bán, một ngành nghề cũng có thương hiệu, có một đồ án gọi là Mark. Tịnh Tông Học Hội chúng ta cũng có, chính là logo phía trên. Phật pháp cũng không ngoại lệ, cũng thuận theo thế gian pháp chọn lựa một tiêu chí để đại biểu giáo học của Thế Tôn đối với xã hội. Thế Tôn chọn lấy hình tượng “bánh xe”. Hình tượng của bánh xe tượng trưng cho những nội dung mà Phật giáo hóa chúng sanh, Phật đã nói những gì cho chúng sanh, đồ án này phải có thể biểu thị ra, nêu rõ ra. Cho nên, thông thường đồ án dùng trong nhà Phật chúng ta có ba loại. Đồ án được dùng nhiều nhất chính là “Bánh Xe Pháp”, chúng ta thường nói pháp luân thường chuyển. Loại thứ hai là “Hoa Sen”, hoa sen cũng được nhà Phật dùng để làm tiêu chí. Loại thứ ba là chữ “Vạn”, một trong ba mươi hai tướng của Phật, trên ngực của Phật có một chữ vạn. Ý nghĩa chữ vạn này biểu thị tốt đẹp, tất cả pháp mà Phật đã nói đều là tốt đẹp nhất.

Hoa sen là đại biểu thanh tịnh vô nhiễm, không nhiễm, sanh ra từ bùn mà không nhiễm. Gốc của hoa sen sanh ra từ trong bùn. Bùn biểu thị cho sáu cõi, bên trên bùn là nước, nước biểu thị pháp giới bốn thánh Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Hoa sen nở ở trên mặt nước, có ý là siêu việt sáu cõi, siêu việt mười pháp giới, họ ở Pháp Giới Nhất Chân. Không chỉ là sáu cõi không nhiễm, mà pháp giới bốn thánh cũng không nhiễm. Hoa sen là biểu thị cho ý này.

“Bánh xe” biểu thị ý còn viên mãn hơn, chân thật là biểu thị đại viên mãn. Bánh xe là cái tướng động, trong động là không động. Các vị thử nghĩ xem, có thứ nào mà có thể đem hai loại hình tượng này đều biểu thị ra? Chỉ có bánh xe, bánh xe là tròn, tâm viên bất động, xung quanh động nhưng lòng tâm không động, cho nên nó đại biểu “động tịnh không hai, động tịnh là một”. Việc này trong các hình tượng khác không thể hiển thị ra được. Ý nghĩa sâu hơn một tầng nữa là đại biểu “tánh – tướng không hai, không – có là một”. Bạn xem, chung quanh bánh xe là biểu thị tướng, đại biểu có; tâm của bánh xe biểu thị không, đại biểu tánh, tánh là không, cho nên tâm viên. Tâm viên ở đâu vậy? Không tìm ra được. Có tâm hay không? Nhất định có tâm, thế nhưng tâm không thể được. Hiện tại có học thuyết nào có thể nói ra được rõ ràng? Cho nên “điểm” chỉ là một khái niệm trừu tượng, không phải sự thật, thế nhưng điểm di động chính là tuyến, tuyến di động chính là diện, tuyến và diện chúng ta có thể quan sát ra được, còn điểm không thể quan sát được, cho nên không tìm ra tâm viên. Tâm là không, tướng là có. Tướng có là do không mà sanh ra có. Có từ do đâu mà ra? Có từ không mà ra. Cho nên, có vẫn là không, có không phải là thật có, có gọi là huyễn có. “Chân không bất không, diệu hữu phi hữu”, “bánh xe” biểu thị cho ý này. Ý này thật viên mãn, đích thực mười phương ba đời tất cả chư Phật vì chúng sanh nói pháp chính là nói rõ đại đạo lý này, nói rõ chân tướng sự thật này.

Vòng tròn xung quanh của bánh xe biểu thị cho mười pháp giới y chánh trang nghiêm. Trung tâm của bánh xe pháp luân đại biểu cho tự tánh, đại biểu pháp thân lý thể, chân tâm bổn tánh của chúng ta. Tất cả chư Phật Như Lai vì chúng sanh giảng Kinh nói pháp cũng không ngoài nói rõ sự việc này. Đó là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Cho nên, dùng bánh xe để biểu pháp rất là viên mãn tròn đầy. Bánh xe nhất định phải động. Động là nó hoạt động. Nếu như bánh xe không động thì biến thành phế vật, liền biến thành đồ chết. Bánh xe nhất định phải động. Ngày nay khoa học phát triển, các vị thử nghĩ xem, đạo lý gì có được thành tựu huy hoàng như ngày nay? Đều là bánh xe đang chuyển, bất cứ máy móc gì cũng không ngoài vòng tròn này. Hiện tại bánh xe còn làm thành bánh răng, ngay trong bánh xe với nhau mới có thể sanh ra tác dùng chuyển động, toàn là bánh xe đang chuyển động. Cho nên Phật giảng Kinh nói pháp liền dùng bánh xe pháp luân chuyển để làm thí dụ. Chúng ta xem thấy Phật Kinh “chuyển pháp luân” chính là thúc đẩy công tác Phật Đà giáo dục xã hội, là biểu thị ý này. Chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian này chính vì sự việc như vậy, có thể nói tám tướng thành đạo, bảy tướng khác đều là vì tướng này, cho nên tướng này phải đặc biệt nói cho tường tận. Bất cứ tướng nào khác chỉ cần nói qua hai – ba câu thì được rồi, nhưng tướng này thì phải nói cho tường tận. Tất cả chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở thế gian chính là để làm sự việc này.

Đoạn văn này dài, chúng ta cũng phân ra làm mấy đoạn. Trước tiên phân làm hai đoạn lớn, một cái là tổng tướng, một cái là biệt tướng.

Kinh văn: “Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân”.

Đây chính là vừa rồi tôi mới nói, Phật xuất hiện ở thế gian này, người thế gian phàm phu mắt thịt không nhận biết Phật Đà, không biết được Phật xuất hiện ở đời. “Thiên nhân” Trời Tịnh Cư “quy ngưỡng”, xem thấy Phật thị hiện ở thế gian thì họ ngưỡng mộ quy tâm, thế là thay tất cả chúng sanh “thỉnh chuyển pháp luân”, thỉnh Phật giảng Kinh nói pháp, thỉnh Phật giáo hóa tất cả đại chúng. Chỗ này chân thật là trên Kinh đã nói: “Phật vi thiên nhân sư phạm, cửu giới đạo sư”. Phật không chỉ là mô phạm cho tất cả mọi người chúng ta, mà là tấm gương tốt nhất cho tất cả hữu tình chín pháp giới, cho nên chúng ta phải học Phật. Nếu chúng ta giữ tâm học Phật, muốn học Phật làm người, muốn học Phật đối nhân xử thế tiếp vật, muốn học ngôn ngữ của Phật, Phật mọi thứ đều là tấm gương mô phạm tốt nhất cho tất cả chúng sanh, đó gọi là học Phật. Học Phật không phải là nghiên cứu Kinh giáo. Nghiên cứu Kinh giáo người hiện tại gọi là Phật học. Phật học và học Phật hoàn toàn là hai sự việc. Nếu chỉ là Phật học mà không biết học Phật thì bạn vẫn là phàm phu sanh tử, không cách gì đoạn phiền não, không cách gì siêu việt luân hồi. Nếu như bạn chân thật học Phật, thì không chỉ siêu việt sáu cõi mà còn siêu việt mười pháp giới. Đặc biệt là nếu y theo bộ Kinh điển này mà tu học thì khẳng định nắm vững được “vạn người tu vạn người đi”, một người cũng không sót lọt. Đó là Tổ sư đại đức xưa nay nói cho chúng ta nghe. Đó là thỉnh pháp.

Kinh văn: “Thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian”.

Phía trước trong đề mục của chúng ta “thỉnh pháp năng cảm”, “nói pháp là sở ứng”, đó là hiển cảm – hiển ứng rất là rõ ràng. “Thường” là không gián đoạn. Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới cội Bồ Đề thị hiện thành chánh giác, thị hiện thành Phật, từ đó về sau giảng Kinh nói pháp không hề có một ngày gián đoạn, nói pháp 49 năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội. Ba trăm hội là những pháp hội qui mô lớn, pháp hội nhỏ thì không nói, diễn thuyết dạy học qui mô lớn có hơn ba trăm hội. Qui mô nhỏ là tùy thời có một người, hai người, tám người, mười người đến cầu kiến Thích Ca Mâu Ni Phật, thỉnh giáo với Ngài thì Ngài giảng Kinh nói pháp. Những hội nhỏ như vậy thì không tính, nếu tính vào thì ba ngàn hội cũng không chừng.

“Thường dĩ pháp âm” là pháp gì vậy? Phía sau nói “giác”, pháp này là pháp giác, giúp đỡ tất cả chúng sanh “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Tám chữ này đã đem tông chỉ mục đích giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra hết. Mục đích là giúp đỡ tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, đây là từ trên mục đích mà nói. Khổ từ do đâu mà có? Khổ từ mê hoặc mà có, mê rồi thì có khổ. Vui từ nơi đâu mà có? Vui là từ giác ngộ mà có, giác ngộ thì bạn liền vui, cho nên mê ngộ là nhân, khổ vui là quả. Muốn giúp chúng sanh lìa khổ được vui thì nhất định phải ở trên nhân mà làm mới được, trên quả thì không có cách gì, phải từ trên nhân mà hạ thủ. Phật biết pháp khổ vui, Ngài biết được nhân quả ở trong đây, cho nên cả đời từ nơi công việc giáo học. Giáo học chính là giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ.

“Giác chư thế gian”. Thế gian có ba loại, ba loại thế gian thảy đều bao gồm ngay trong đó. Loại thứ nhất là “Hữu tình thế gian chủ”, như trên “Kinh Hoa Nghiêm” nói những thế chủ này, hữu tình chúng sanh. Những đại chúng chúng ta ngồi ở đây đều thuộc về chúng sanh hữu tình.

Loại thứ hai gọi là “Khí Thế Gian Chủ”. Khí thế gian chủ cũng là chúng sanh, là một loại khác, mắt thịt chúng ta không thể nhìn thấy. Đó là những chúng sanh nào vậy? Trong Kinh nói thần đất, thần núi, thần cây, đó là khí thế gian chủ. Đạo tràng này của chúng ta nhất định có thần bảo hộ đạo tràng, thần hộ trì đạo tràng. Các vị đồng tu chính mình ở nhà, trên “Kinh Địa Tạng” nói có thần trạch, chính là thần bảo hộ cái nhà của bạn. Những loại chúng sanh này mắt thịt chúng ta không thể nhìn thấy, thế nhưng chúng ta được sự bảo hộ của họ. Nếu như chúng ta tạo tác ác nghiệp thì những thiện thần này đi mất. Khi thiện thần đi mất thì có một tốp quỷ thần khác đến, ác thần kéo đến. Thiện thần đi rồi, không bảo hộ bạn nữa, ác thần liền đến. Ác thần giúp cho bạn tạo nghiệp, ác thần khích lệ bạn tạo nghiệp, mong muốn bạn tương lai đọa vào địa ngục, họ ở đó nhìn thấy mà vui mừng. Họ làm việc như vậy. Trong quỷ thần, xin nói với các vị, ác thì nhiều mà thiện thì ít, đại khái quỷ thần thiện đều quy y Tam Bảo, đều là đệ tử Phật, cho nên trong quỷ vương có rất nhiều vị là Bồ Tát thị hiện, không phải thật sự là quỷ vương. Những ác quỷ đáng thương này khuyên họ đoạn ác tu thiện, khuyên họ không nên hại những chúng sanh này, phải phát tâm bảo hộ những chúng sanh này, loại này gọi là Khí Thế Gian Chủ.

Loại thứ ba gọi là “Trí Chánh Giác Thế Gian Chủ”. Đó là nói người chứng quả từ A La Hán trở lên. A La Hán, Bồ Tát, tông Thiên Thai gọi là Tạng Giáo Phật, Phật của Thông giáo, đều là thuộc về Trí Chánh Giác Thế Gian Chủ.

Đối tượng Phật giảng Kinh nói pháp bao gồm ba loại thế gian này, gọi là Chư Thế Gian. Đây chính là thường nói chúng sanh chín pháp giới hữu giáo vô loại, Phật là một mực dạy bảo bình đẳng, hiển thị ra đại từ đại bi vô tận. Từ bi là thanh tịnh bình đẳng, không phân thiện ác, người thiện Phật dạy, người ác Phật cũng dạy; không phân oán thân, có quan hệ thân thiết với Phật thì Phật dạy, là oan gia đối đầu với Phật thì Phật cũng dạy, đó mới gọi là đại từ đại bi. Phương pháp Phật giảng Kinh thì vô lượng vô biên. Phật có trí tuệ cứu cánh viên mãn, cho nên vì tất cả chúng sanh khai thị pháp môn pháp âm vô lượng vô biên. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, Phật nói vô lượng pháp môn, chúng ta phải phát tâm học vô lượng pháp môn.

Kinh văn: “Thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian”.

Câu Kinh văn này là một trong tám tướng thành đạo, là “chuyển pháp luân” trong tổng tướng “nói pháp”. Các vị đã thấy được rất rõ ràng ở trên đề Kinh, hai câu này là tổng thuyết, nói rõ Thế Tôn vì sao phải xuất thế, cũng nói rõ Thế Tôn vì sao xây dựng Phật pháp ở thế gian này. Nhà Phật thường nói: “Như Lai gia nghiệp”, hai câu nói này chính là gia nghiệp Như Lai.

“Thường” là không có gián đoạn, đặc biệt là hiển thị rõ ở trên Hội Hoa Nghiêm, gọi là “trần thuyết sát thuyết, vô gián đoạn thuyết”. “Hoa Nghiêm” nói như vậy, chúng ta liền biết được chư Phật Như Lai đã nói tất cả Kinh pháp đều không ngoại lệ, đều đồng một pháp vị, thuần chân vô vọng, đó là ý của “thường”.

“Pháp âm” là gì? Có phải là chúng ta giảng giải Phật Kinh thì gọi là pháp âm? Không phải vậy. Nếu như theo cách nói này, sai biệt trong đó sẽ rất lớn. “Pháp” là pháp tánh, ở trên thân của chúng sanh hữu tình, Phật gọi là “Phật tánh”; ở trên thân chúng sanh vô tình, Phật gọi là “pháp tánh”. Pháp tánh bao gồm Phật tánh, Phật tánh không bao gồm pháp tánh. Kỳ thật Phật tánh cùng pháp tánh là một tánh. Trong Kinh giáo, Phật nói với chúng ta vũ trụ từ đâu mà có, sinh mạng từ đâu mà có. Sinh mạng mà ngay chỗ này đã nói không chỉ là sinh mạng mà thế gian này chúng ta thường gọi, mà bao hàm chúng sanh hữu tình mười pháp giới, đó là có sinh mạng. Họ từ đâu mà đến? Vô tình là nói hoàn cảnh của y báo, hoàn cảnh chúng ta sinh sống, núi sông đất đai gọi là hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh vật chất từ đâu mà có?

Khoa học gia hiện tại đều đang nghiên cứu, đang thăm dò, tìm kiếm nguồn gốc của vũ trụ, họ có thể tìm ra được hay không? Trong suy nghĩ của chúng ta thì họ không cách gì tìm ra được. Vì sao có thể khẳng định họ không thể tìm ra được? Bởi vì phương pháp của họ dùng là sai lầm, phương hướng sai lầm. Về việc này, không chỉ là khoa học thời hiện đại xem đây là vấn đề sống còn để nghiên cứu, mà những năm trước khi Thế Tôn ra đời (theo cách nói của người phương tây là vào thời đại 2.500 năm về trước, nếu như chiếu theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì là thời đại của 3.000 năm trước), người thông minh cũng không ít, họ cũng đi tìm khởi nguồn của sinh mạng, khởi nguồn của vũ trụ. Trong điển tích tôn giáo cổ xưa ở Ấn Độ có thể xem thấy họ đã nói ra hai mươi lăm đế, đã nói ra minh đế, đó chính là nói khởi nguồn của vũ trụ. Họ nói có chính xác hay không? Phật nói đó là một sự ngộ nhận rất lớn, không phải sự thật. Vì sao có thể sanh ra hiểu lầm to lớn như vậy? Do phương pháp phương hướng sai lầm, họ cũng phạm phải sai lầm giống như các nhà khoa học hiện đại. Khoa học hiện đại dùng máy móc tiên tiến để dò tìm. Những nhà tôn giáo cổ đại là dùng công phu thiền định, thực tế mà nói, so với những thiết bị của khoa học gia hiện đại dùng thì cao minh hơn nhiều. Khoa học kỹ thuật hiện đại vẫn không cách gì đột phá được thời không. Trong khoa học đã chứng thực có quá khứ, có vị lai, cũng biết được chúng ta có thể quay trở lại quá khứ, cũng có thể bước vào cảnh giới của tương lai, trên lý luận thì nói được thông, thế nhưng không biết dùng phương pháp gì có thể trở về quá khứ, đảo ngược thời gian, ngày nay gọi là trục đạo thời gian. Hiện tại, trục đạo thời gian vẫn chưa đả thông, không thể trở lại quá khứ, cũng không cách gì bước vào được tương lai. Thế nhưng nếu dùng công phu thiền định thì có thể đột phá được chướng ngại này. Đột phá được chướng ngại này thì có thể trở lại quá khứ, cũng có thể bước vào được tương lai.

Hiện có rất nhiều nơi lưu hành một quyển Sướng Tiêu Thư, có đồng tu đem đến cho tôi xem, hiện tại là rất thịnh hành cuốn “Mật Mã Kinh Thánh”, có phiên dịch Trung văn, nguyên bản tiếng Anh tôi cũng thấy qua. Truyền thuyết quyển sách này là viết từ 3.000 năm trước. Quyển sách này viết ra những tai nạn to lớn sẽ xảy ra ở thế gian này vào thời đại của chúng ta. Đó là sách dự ngôn, 3.000 năm trước biết được những việc xảy ra như thế nào của 3.000 năm sau, hơn nữa nói rất chính xác. Quyển sách này tôi đã xem qua. Tôi xem bản dịch, không phải nguyên bản. Nói lên việc này là một nhà báo của Hoa Kỳ, ông ấy không tín ngưỡng tôn giáo, ông xem thấy những sự việc đã viết ra trên quyển sách này thì rất kinh ngạc, vì sao dự ngôn đến nay chuẩn xác đến như vậy? Ông cũng rất thông minh, ông tưởng tượng quyển sách này không phải Thượng Đế viết, vì sao vậy? Nếu như là Thượng Đế viết thì Thượng Đế phải có năng lực hóa giải những tai nạn này, trong sách chỉ đưa ra cảnh cáo là sẽ xảy ra những việc như thế nào đó, lại không có cách gì hóa giải, cho nên việc này không phải Thượng Đế viết. Ông ấy nói, đây phải là một người rất thông minh, một người rất có lòng từ bi mới đưa ra một cảnh báo nghiêm trọng cho chúng sanh thời hiện đại này. Quan điểm này thực tế mà nói cũng tương đối khách quan. Chúng ta biết đây là một người thông minh, thế nhưng ông ấy không biết được do nguyên nhân gì, còn chúng ta thì biết được. Phàm hễ dự ngôn, không luận là trong nước hay ngoài nước, thời xưa hay thời hiện đại, căn cứ lý luận dự ngôn có hai loại. Một loại là số học, từ trong số học mà phán đoán ra, họ cũng đoán được tương đối chuẩn. Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn” (tôi nghĩ rất nhiều đồng tu đều đã xem qua quyển này), Khổng tiên sinh đoán mạng cho tiên sinh Liễu Phàm rất chuẩn, đó cũng là dự ngôn. Liễu Phàm lúc đó còn rất trẻ, Khổng tiên sinh đoán ông 50 tuổi phải chết, lành dữ cả đời gần như đều bị ông đoán trúng hết, đó cũng là dự ngôn. Ông căn cứ vào đâu vậy? Ông căn cứ vào số học để suy đoán. Chỉ cần bạn có ngày giờ sanh chính xác thì có thể suy đoán kiết hung họa phước của cả đời bạn. Nếu như số học của ông ấy kém một chút thì chẳng phải đoán sai cho bạn rồi sao? Đoán một người tương đối dễ dàng, thời gian ngắn, nếu như đoán kiếp vận của thế gian thì khó, thời gian dài, sau 3.000 năm thật là không dễ. Cho nên chúng ta tỉ mỉ mà xem lời dự ngôn trong “Kinh Thánh” đã viết, chúng ta cũng có thể khẳng định đó là công phu của thiền định, không phải là số học. Thiền định có thể đột phá được thời không, ở trong thiền định có thể thấy được vị lai. Vị lai 3.000 năm không xem là quá dài, họ có thể xem thấy được, cho nên phần dự ngôn này là từ trong thiền định mà có được, đáng tin hơn rất nhiều so với số học. Suy đoán của số học sẽ có sai lầm, cảnh giới hiện lượng trong định gần như có thể nói chính xác đến một trăm phần trăm.

Loại âm này không xem là pháp âm. “Pháp âm” chỉ có Phật có thể nói, đó là pháp tánh, có thể nói ngôn ngữ, âm thanh, giáo học của tánh đều bao hàm ở trong hai chữ này. Như Lai thân-ngữ-ý ba thân đều không ngoài là lợi ích tất cả chúng sanh, cho nên gọi là pháp âm. Quyển Kinh là dấu hiệu của ngôn ngữ, văn tự là phù hiệu, là ghi chép của ngôn ngữ, dùng phương pháp này để truyền được lâu dài, cho nên văn tự Kinh điển cũng thuộc về phạm vi của pháp âm. Ngày nay chúng ta đọc được Kinh điển, nghe được Phật pháp, làm cho tư tưởng, kiến giải, quan niệm, hành vi của chúng ta có thể có được chuyển biến, pháp âm này liền nhận được hiệu quả.

Phía sau Phật nói: “Giác chư thế gian”, trọng điểm ở “Giác”, khiến cho thế gian phổ biến bình đẳng giác ngộ, đó chính là chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế gian. Các Ngài phải làm một việc lớn, việc lớn này gọi là Phật sự, sự nghiệp của Phật Bồ Tát.

“Thế gian”. “Thế” là nói thời gian. Người Trung Quốc lấy 30 năm làm một đời, bạn xem chữ này là tam thập, 30 năm gọi là một đời. “Gian” là nói không gian, “thế” là nói thời gian, cho nên hai chữ “thế gian” hoặc giả gọi là “thế giới”, ý nghĩa đều giống nhau, cùng thông thường gọi “vũ trụ” là đồng một ý nghĩa, dùng lời hiện tại mà nói chính là “thời không” (thế là thời gian, là không, thời gian cùng không gian). Trong thời không đã bao hàm tất cả vạn sự vạn vật, gọi là chư thế gian, rất nhiều, vô lượng vô biên. Thế gian vô lượng vô biên, Phật vì phương tiện nói pháp để khai mở, đem nó phân thành ba loại lớn là hữu tình thế gian, khí thế gian, trí chánh giác thế gian. Phật đối với ba loại thế gian này đều là “thường dĩ pháp âm”, giúp cho họ giác ngộ. Hữu tình thế gian là nói mười pháp giới, khí thế gian là nói thế giới của vật chất. Trong mười pháp giới, chánh báo là hữu tình thế gian, y báo là khí thế gian, cũng có Kinh nói trí chánh giác thế gian. Trong mười pháp giới, bốn pháp giới phía trên gọi là trí chánh giác, còn hữu tình thế gian là chuyên chỉ chúng sanh sáu cõi. Cách nói này cũng có thể nói được thông, mở rộng xích độ một chút.

Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát là trí chánh giác thế gian, đó là pháp giới bốn thánh. Trên Kinh Đại thừa Phật nói với chúng ta, sáu cõi là phàm phu, pháp giới bốn thánh cũng là phàm phu, sáu cõi gọi là nội phàm, pháp giới bốn thánh gọi là ngoại phàm, ngoài phàm phu sáu cõi, vẫn chưa xem là thánh nhân. Trình độ thánh nhân này thì cao rồi, tiêu chuẩn này chính là trong Pháp Tướng Duy Thức đã nói là đồng sanh cùng dị sanh, lấy điều này làm tiêu chuẩn. Đồng sanh là trí chánh giác, dị sanh là phàm phu. Thế nào gọi là đồng sanh? Đồng sanh là cùng với chư Phật Như Lai dùng đồng một chân tâm, tâm của bạn cùng tâm của chư Phật là giống nhau. Dị sanh là tâm của bạn cùng tâm của Phật không như nhau, không như nhau chính là dị. Vì sao không giống nhau? Vì chúng ta khởi tâm động niệm đều dùng tám thức 51 tâm sở. Dùng tám thức 51 tâm sở chính là dị sanh tánh, chính là phàm phu, cho nên Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát Quyền Giáo, trong bốn giáo của Đại Sư Thiên Thai đã nói, thì Tạng Giáo Phật và Thông Giáo Phật đều dùng tám thức 51 tâm sở, là dị sanh tánh. Rốt cuộc thì ai là đồng sanh tánh? Biệt Giáo Sơ Địa trở lên, Viên Giáo Sơ Trụ trở lên, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân là đồng sanh tánh, cùng chư Phật Như Lai dùng đồng một chân tâm, đó mới chân thật gọi là chánh giác, chánh đẳng chánh giác, trên Kinh cũng gọi là đẳng chánh giác, chánh đẳng chánh giác. Tuy là chánh đẳng chánh giác, họ siêu việt mười pháp giới, trụ Nhất Chân Pháp Giới. Trong Nhất Chân Pháp Giới, những Bồ Tát này còn có bốn mươi mốt giai bậc, trên “Kinh Hoa Nghiêm” gọi là bốn mươi mốt vị Pháp Thân Đại Sĩ. Họ chưa được viên mãn, cho nên Phật vẫn phải giúp cho họ, vẫn phải dùng pháp âm giác chư thế gian. Pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn, quyết không phải loại giảng Kinh nói pháp trong quan niệm tưởng tượng của phàm phu chúng ta. Nếu bạn cho rằng như loại giảng đường này của chúng ta, như hội trường này, loại hình thức này, Phật ở nơi đây giảng Kinh nói pháp, giáo hóa mọi người đến nghe thì bạn sai rồi. Pháp Giới Nhất Chân chúng ta không cách gì tưởng tượng, trên Kinh nói là không thể nghĩ bàn. Do đây có thể biết, hai chữ “pháp âm” này chúng ta phải thể hội ý nghĩa của nó, không thể rơi vào vết tích của nó, rơi vào vết tích thì sai rồi. Chỉ cần là trùng trùng phương pháp giúp cho tất cả chúng sanh giác ngộ, phương tiện khéo léo thì đều gọi là pháp âm.

Tương lai chúng ta ở trên hội “Kinh Hoa Nghiêm” sẽ đọc đến Trời Quang Âm tương thông ý kiến với nhau không cần dùng lời nói. Phật ở nơi đó giảng Kinh cho họ thì không cần dùng ngôn ngữ. Ngài dùng phương pháp gì để tương thông ý kiến? Phóng quang, vừa phóng quang ra, mọi người vừa nhìn thấy liền giác ngộ, bạn nói xem thuận tiện cỡ nào! Ngôn ngữ mệt chết người, tốn nhiều sức! Một bộ “Kinh Hoa Nghiêm” chúng ta ở nơi đây khổ cực chuyên cần một ngày hai giờ đồng hồ phải giảng năm năm, nếu như phóng quang thì vừa phóng quang ra, chỉ một sát na là giảng viên mãn bộ “Kinh Hoa Nghiêm”, bạn nói xem tự tại dường nào! Chân thật không thể nghĩ bàn. Cho nên, không nên nghĩ rằng những vị Bồ Tát này cũng ngốc như chúng ta vậy. Người Trời Quang Âm trở lên đều không dùng ngôn ngữ. Phạm vi của ngôn ngữ thực tế mà nói là rất nhỏ hẹp, rất có hạn, chân thật gọi là từ và ý trái nhau, từ không thể đạt ý.

“Ý” là nói ý thức thứ sáu. Năng lực của ý thức thứ sáu mạnh hơn nhiều so với ngôn ngữ. Thức thứ sáu có thể duyên hư không pháp giới, trong có thể duyên đến A Lại Da Thức, thế nhưng nó vẫn là có giới hạn, nó duyên không đến chân như bổn tánh, cho nên dùng tâm ý thức để tu hành không thể kiến tánh. Dùng tâm ý thức tu hành, tu được rất đúng pháp, hoàn toàn chiếu theo Kinh giáo Như Lai để tu, Phật dạy bạn phải đoạn, bạn thật đã đoạn dứt; Phật dạy bạn nên làm, bạn thật đã làm đến được viên mãn tròn đầy, cũng có thể làm đến được Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật, nhưng không ra khỏi mười pháp giới. Vì sao vậy? Vì giới hạn của thức thứ sáu là mười pháp giới. Nếu như bạn tường tận rồi, bạn có thể chuyển thức thành trí, chuyển tám thức thành bốn trí thì đột phá mười pháp giới, bạn liền vào Pháp Giới Nhất Chân. Vào Pháp Giới Nhất Chân thì đồng một sanh tánh với Phật. Cho nên, các vị phải nên biết “thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian” là bao gồm mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai ở trong hư không pháp giới làm việc rộng độ chúng sanh. Tám chữ này đã nói hết tổng cương lĩnh tổng nguyên tắc. Chúng ta học Phật, khéo học tập thì học nắm được cương lĩnh, nhất là phải nắm được tổng cương lĩnh. Câu này ý nói là tâm Bồ Đề viên mãn tròn đầy, tâm Bồ Đề vô thượng chính là tứ hoằng thệ nguyện viên mãn.

Trong tứ hoằng thệ nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” có phải là giác chư thế gian hay không? Bạn dùng phương pháp gì để độ chúng sanh? Pháp âm. Phía sau là đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo, hai chữ “pháp âm” này thảy đều bao gồm lấy.

“Tổng tướng” chỉ giới thiệu với các vị đến chỗ này, chúng ta xem tiếp “Biệt Tướng” ở phía sau.

Biệt tướng là áp dụng của tổng tướng, đó là tổng nguyên tắc, làm thế nào thực hiện ở trên sự tướng. Văn được phân làm hai đoạn, hai vị Bồ Tát làm đại biểu, Phổ Hiền đại hạnh, Văn Thù đại trí. Phật pháp Đại thừa là lấy bốn vị Bồ Tát làm căn bản, như xây dựng một cái nhà vậy, phải có bốn trụ cột, thiếu một trụ thì không được. Phổ Hiền, Văn Thù, Quan Âm, Địa Tạng ở bốn đại danh sơn Trung Quốc chúng ta. Bốn đại Bồ Tát mới có thể xây dựng Phật pháp Đại thừa.

Trích trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Tập 32-33

Bài viết liên quan

Tịnh Nghiệp Tam Phước: Phước Thứ Hai

Thiện Quang

Kinh Địa Tạng phẩm 1: Thần thông trên cung trời Đao Lợi tập 11

Thiện Quang

Hữu tình chưa độ khiến được độ

Thiện Quang

Có thể vãng sanh hay không là do phát Bồ Đề Tâm

Thiện Quang

Nguyện thứ 45: Nguyện trong định cúng Phật

Thiện Quang

Rõ ràng thông suốt thành một nước Phật

Thiện Quang

Nguyện thứ nhất: Nguyện trong nước không có ác đạo

Thiện Quang

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 8: Tích công lũy đức tập 3

Thiện Quang

Pháp môn, kinh điển nào khế cơ nhất?

Thiện Quang