3 loại đau bệnh theo quan điểm đạo Phật
Bệnh đau ở trong Phật pháp nói có 3 loại, rất nhiều loại bảo khang chỉ có thể làm cho thân thể khỏe mạnh, bệnh oan nghiệp thì không thể giữ.
Những sự tướng cần học ở nhân địa của A Di Đà Phật
“Tịnh” là thanh tịnh. Nếu như không phải từ giới-định-huệ mà thành tựu, thì làm gì được thanh tịnh? Thế giới Tây Phương Cực Lạc là Tịnh Độ. Tịnh Độ từ do đâu mà có? Tịnh Độ từ tâm thanh tịnh mà có. Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.
Chúng ta ở trong lúc giảng giải đã từng nói qua với các vị nhiều lần, người đến trung niên về sau đều cảm thấy sức khỏe là quan trọng, đều yêu tiếc thân thể của chính mình, thương tiếc thân mạng của chính mình, vậy làm sao giữ gìn? Tâm thanh tịnh là quan trọng. Tâm thanh tịnh thì thân liền thanh tịnh, liền được khỏe mạnh sống lâu.
Có lẽ có đồng tu từng nghe người ta nói, thọ mạng của người là nhất định. Trường thọ là trong mạng họ đã chú định được trường thọ, trong mạng không có được tuổi thọ dài đến như vậy thì cũng không cách gì kéo dài. Người hiện tại nói y dược phát triển, rất nhiều người tuổi thọ dài hơn so với một thế kỷ trước, lời nói này chúng ta nghe qua cảm thọ không như nhau.
Nếu như chân thật những y dược này có thể trị liệu bảo dưỡng, có thể kéo dài được tuổi thọ, thì định luật nhân quả đã bị đánh đổ rồi chăng? Làm gì có loại đạo lý này? Người chân thật hiểu rõ chân tướng sự thật, họ sẽ không đồng ý cách nói này. Có thể nói giữ cho giảm ít bệnh tật, hoặc là làm cho tật bệnh giảm nhẹ, nhưng quyết định không thể kéo dài được tuổi thọ.
Hơn nữa bệnh đau ở trong Phật pháp nói có ba loại, cho nên rất nhiều loại bảo khang chỉ có thể làm cho thân thể khỏe mạnh, chỉ có thể giữ được loại bệnh này, bệnh oan nghiệp thì không thể giữ.
Như trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, Quốc sư Ngộ Đạt bị ghẻ mặt người thì thuốc vô hiệu, bất cứ thứ thuốc nào ở thế gian này đều không hiệu quả đối với nó. Oan gia trái chủ đến tìm bạn, đó không phải là bệnh sinh lý, mà là bệnh oan nghiệp.
Hiện tại ở trong xã hội này, ở trong nước, ở ngoài nước, chúng ta xem thấy rất nhiều nơi nói là có một số thứ gì đó nhập vào thân, thân thể ý thức của họ đều không thể tự chủ, nghe người khác xếp đặt, đó là gì vậy? Oan nghiệp nhập thân. Dược liệu có tiến bộ hơn, bác sĩ có giỏi hơn cũng không có cách gì trị hếtloại bệnh này. Điều này chứng minh năng lực của dược liệu rất có hạn, đây là bệnh không thể trị hết.
Bệnh oan nghiệp vẫn có phương pháp hóa giải, gặp phải thứ này, chúng ta tụng Kinh bái sám, niệm Phật hồi hướng cho họ. Nếu họ chịu tiếp nhận thì họ liền rời khỏi, bệnh của bạn liền khỏi. Bệnh oan nghiệp, bạn phải chân thật thành tâm thành ý mà làm, có lúc rất có hiệu nghiệm, đại đa số đều có thể tiếp nhận, đều có thể hóa giải.
Loại thứ ba gọi là bệnh nghiệp chướng thì càng đáng lo, tức là chính mình hoặc là quá khứ hoặc là đời này tạo tội nghiệp cực trọng, đó là chiêu cảm bệnh đau, đó không phải là oan quỷ đến tìm bạn, lại không phải là bệnh ở trên thân, cái bệnh đó thì rất khó trị.
Ba loại bệnh trạng này chúng ta tùy thời tùy lúc đều có thể gặp phải, đều có thể gặp được. Bệnh nghiệp chướng chỉ có một phương pháp có thể trị liệu là chân thành sám hối, triệt để sám hối thì được. Đây là sám trừ nghiệp chướng. Cho nên các vị nhất định phải nên biết, tất cả trị liệu của thế gian, người Trung Quốc chúng ta thường hay mê tín tẩm bổ, công hiệu rất là có hạn. Tâm thanh tịnh là đệ nhất.
Người tâm thanh tịnh, người tâm chân thành, người tâm từ bi thì oan gia trái chủ xem thấy cũng không dám tùy ý đến hãm hại bạn, vì sao vậy? Bạn có thần hộ pháp bảo hộ, có những thiện thần đến giúp đỡ bạn, họ không thể đến gần.
Nếu như tâm của bạn không thanh tịnh, bạn còn có ý niệm tự tư tự lợi, còn có ý niệm tham-sân-si-mạn, vậy thì phiền phức này sẽ rất lớn, oan gia trái chủ của bạn liền có được thuận tiện, có dịp để báo thù, bạn không có thiện thần bảo hộ, không có thần hộ pháp giúp đỡ.
Chúng ta xem thấy ở trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, oan gia trái chủ của Quốc sư Ngộ Đạt không phải là một đời, đều là đời trước, tại vì sao không thể báo thù Ngài? Đến đời thứ hai là Ngài xuất gia, đời thứ ba cũng xuất gia, đến lần này gặp được là đời thứ mười. Đời thứ mười Ngài cũng xuất gia, Ngài có tu trì, có thần hộ pháp bảo hộ, oan gia này không thể đến gần. Đến khi đời thứ mười, Ngài làm Quốc sư.
Các vị phải nên biết, đại đức trong nhà Phật, địa vị cao đến như vậy quyết không phải là thành tựu của một đời, tu học của một đời không đến được vị trí này. Quốc sư Ngộ Đạt mười đời là cao tăng, khiến chúng ta nghĩ đến thời xưa, những vị đại thiện tri thức này được quốc vương đại thần tôn kính không phải là tu hành của một đời, mà là thành quả của nhiều đời nhiều kiếp tu hành. Ngài là thầy của Hoàng đế, ai mà không tôn kính Ngài? Hoàng đế cúng dường cho Ngài một cái bảo tòa trầm hương, sau khi Ngài tiếp nhận rồi liền sanh ra cái tâm ưa thích, một ý niệm ngạo mạn sanh khởi, cảm thấy người xuất gia trong thiên hạ đều không bằng được Ngài. Cái ý niệm này vừa mới sanh thì thần hộ pháp liền đi mất, ông không còn đức hạnh, thoái chuyển rồi, nên đều bỏ đi hết, oan gia trái chủ tìm đến thân, gần như lấy đi cái mạng.
Cho nên, đức hạnh không thể kém khuyết đi chút nào. Một ý niệm sai thì đáng ngại rồi, nếu như mỗi niệm đều sai thì nhất định đọa lạc, đi vào ba đường. Chúng ta đọc qua những điển tích này phải biết đề cao cảnh giác, những người đó đều là tấm gương cho chúng ta, chúng ta phải học theo gương tốt. Những người này thị hiện ra rất nhiều lỗi lầm, chúng ta phải nỗ lực phản tỉnh, quyết định không thể phạm. Mười đời là cao tăng mà khởi lên ý niệm ác liền rước lấy phiền phức đến như vậy, chúng ta là phàm phu, chúng ta khởi tâm động niệm tạo nghiệp, tương lai sẽ ra sao chứ?
Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh phải thường đọc. Trên Kinh đó là Thế Tôn đại từ đại bi nói ra tâm bệnh của người xuất gia thời Mạt Pháp, chúng ta thường hay mỗi niệm nghĩ xem chính mình có phạm hay không? Nếu như chính mình còn phạm phải rất nhiều, còn phạm rất nặng, thì chính mình phải nên biết, tiền đồ của ta quyết định là A Tỳ Địa ngục, không nên cho rằng niệm Phật thì có thể vãng sanh, không dễ dàng như vậy.
Thế giới Cực Lạc là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”. Tâm địa bất thiện, người xưa nói niệm Phật niệm đến “gió thổi không lọt, mưa không thấm ướt”, bạn cũng không thể vãng sanh. Cho nên niệm Phật chân thật vãng sanh phải niệm đến thế nào? Niệm đến tâm thanh tịnh. Chỗ này ngay trong lúc giảng giải cũng thường hay nhắc nhở các đồng tu, niệm Phật phải niệm hết đi phiền não, phải niệm hết đi tập khí. Sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, cái tâm này vừa động thì liền một câu A Di Đà Phật đem cái ý niệm đó đè xuống. Đây gọi là công phu. Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng thì có ích gì chứ? Đó chính là người xưa nói: “Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Cho nên mục đích của niệm Phật, trên Kinh Di Đà nói rất hay: “Nhất tâm bất loạn”.
Mục đích của niệm Phật là phải niệm đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn chính là tâm thanh tịnh hiện tiền. Sau đó mới chân thật hiểu được, người xưa thường nói “tâm tịnh thời cõi nước tịnh”, đây là điều kiện quyết định được sanh Tịnh Độ. Tâm địa thanh tịnh, lời trong tông môn nói là “ngoài không dính mắc, trong không động tâm”, tâm liền thanh tịnh. Những thứ năm dục sáu trần bên ngoài đang mê hoặc chúng ta, chúng ta có chút tham đắm thì hỏng rồi, cho nên ý niệm đó vừa khởi thì niệm A Di Đà Phật, lập tức đổi ngay cái ý niệm đó.
Người xưa đã nói là “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Đề khởi một câu A Di Đà Phật là giác, phải giác được nhanh, không nên để cho ý niệm này tiếp nối. Cách niệm Phật là niệm như thế, công phu niệm Phật là từ chỗ này mà luận. Trong không động tâm, bên trong không có vọng tưởng, không có phiền não. Bên trong phiền não, vọng tưởng khởi lên thì A Di Đà Phật đem nó đè xuống, công phu ở chính ngay chỗ này.
Bên ngoài không dính mắc, trong không động tâm, niệm Phật như vậy thì đúng pháp, như lý như pháp, niệm Phật như vậy thì có công đức. Niệm Phật là công, hàng phục phiền não là đức. Không chỉ không bị mê hoặc bởi tất cả pháp thế gian, mà xuất thế gian pháp cũng không bị mê hoặc, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, ở cái thế gian này tất cả tùy duyên mà không phan duyên. Tùy duyên thì tự tại, đây là hạnh phúc chân thật. Chữ “tịnh” này chúng ta phải xem trọng, đặc biệt xem trọng.
Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không
Trích trong: Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giảng Ký tập 92