48 đại nguyện của A Di Đà Phật - HT Tịnh Không giảng
Pháp Ngữ

48 đại nguyện của A Di Đà Phật – HT Tịnh Không giảng

A Di Đà Phật phát ra 48 đại nguyện, chỉ cần niệm danh hiệu thì Ngài liền tiếp dẫn chúng ta đến Cực Lạc. Ngài có nguyện ấy, chúng ta cũng phải có nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ấy.

“Pháp Tạng bạch ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn đại từ thính sát””.
(Pháp Tạng bạch rằng: “Kính xin Đức Thế Tôn đại từ nghe, xét”).

Trên thực tế, lúc này Ngài Pháp Tạng đã thành Phật rồi, tức là A-di-đà Phật đứng trước mặt thầy vẫn là thân phận đệ tử. Ngài nói: “Duy nguyện Thế Tôn”, đây là lối xưng hô tôn kính đối với thầy. “Đại từ thính sát”, chữ “sát” này tức là quán sát, nếu có chỗ nào sai thì thỉnh thầy chỉ giáo sửa lại.

Sau đây là đoạn thứ nhất, trong đoạn này có hai nguyện:

“Ngã nhược chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề, thành Chánh Giác dĩ, sở cư Phật sát cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm”.

(Con nếu chứng được Vô Thượng Bồ-đề, thành Chánh Giác rồi, cõi nước của con ở có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn).

Đoạn này là nói tổng quát, nội dung bao quát toàn bộ bốn mươi tám nguyện. “Ngã nhược chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề”, “Vô Thượng Bồ-đề” tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, “thành Chánh Giác dĩ”, Ngài đã thành Phật viên mãn rồi. “Sở cư Phật sát”, thế giới của Ngài cư trú tức là thế giới Cực Lạc, “cụ túc vô lượng bất khả tư nghị công đức trang nghiêm”. Ngài ở trước mặt thầy tỏ rõ nguyện vọng quốc độ của Ngài nhất định phải thù thắng hơn quốc độ của chư Phật. Bởi vì tất cả quốc độ của chư Phật đều có khiếm khuyết, còn quốc độ của Ngài không có khiếm khuyết. Còn công đức trang nghiêm đương nhiên là rất nhiều. Loại công đức nào gọi là trang nghiêm đệ nhất? Đó là mười niệm tất sanh, bất thoái thành Phật. Điều này đích thực là công đức trang nghiêm đệ nhất, bởi vì trong tất cả thế giới của chư Phật không có, mà quốc độ của Ngài thì có. Cho nên là công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Điều này là nguyện thứ mười tám trong bốn mươi tám nguyện, chúng ta hãy xem hai nguyện đầu tiên:

❖ Nguyện thứ nhất: Trong nước không có ác đạo.

“Vô hữu địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi loại”.
(Không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, các loại bò bay máy cựa).

Tất cả thế giới của chư Phật đều có ác đạo, còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc không có tam ác đạo. Thông thường mà nói, ác nghiệp chưa dứt sạch mà thiện nghiệp đã thành thục thì có thể sanh vào tam thiện đạo. Như trạng huống của chúng ta hiện nay đều là như vậy, nhưng hưởng hết phước rồi vẫn phải đọa lạc, cho nên tam thiện đạo không cứu cánh. Vẫn còn một việc chúng ta cần phải cảnh giác, đó là rất nhiều người bởi vì hưởng phước mà tạo ác nghiệp, cái đó thì đọa lạc càng nhanh, đọa càng thê thảm, những thứ này đều là chân tướng sự thật, không thể không đề cao cảnh giác. Người thế gian ai lại không hưởng phước báo, nào có biết trong “phước” chôn giấu cái “họa hại” vô lượng. Những người không có phước báo? Những người rất nghèo khổ cố nhiên là rất phiền não, [nhưng] họ muốn tạo ác nghiệp cũng không tạo được. Nói cách khác, đời này họ chỉ đang thọ báo, họ rất khó tạo tội nghịêp to lớn, vậy thì kiếp sau họ sẽ không bị đọa lạc. Người hưởng phước thì khác hẳn. Chúng ta không cần nói việc khác, tiêu chuẩn cuộc sống của những người nghèo khổ hiện nay được nâng cao. Như cỡ lứa tuổi của tôi lúc còn bé sống ở thôn quê, ăn toàn là rau cải, ăn thịt rất ít, đại khái là mồng một, ngày rằm mới mua được thịt. Vào ngày lễ và Tết mới có được một bữa ăn đàng hoàng, hằng ngày không được ăn ngon. Nói cách khác, sát sanh tạo nghiệp thì rất ít, không có cơ hội. Còn người giàu có, mỗi ngày đều ăn gà vịt, cá thịt, món nghiệp nợ này thì phải trả đấy, trả không hết. Chúng ta nhìn thấy họ thì rất hâm mộ nhưng đến sau này khi tính sổ nợ, khi quả báo hiện tiền mới biết được. Ôi chao! Họ không bằng chúng ta, so với chúng ta kém quá xa! Nhân quả thông ba đời, chúng ta không thể không biết những chân tướng sự thật này. Địa ngục là do tạo tác thượng phẩm thập ác mà cảm lấy ác báo, ngạ qủy là trung phẩm thập ác, súc sanh là hạ phẩm thập ác.

Kinh Phật nói với chúng ta về sự chiêu cảm của tham sân si là: sân hận đọa địa ngục, bỏn xẻn tham lam là ngạ quỷ, ngu si là súc sanh. Tham sân si tam độc phiền não cảm được là khổ báo tam đồ. Thế giới Tây Phương không có tam ác đạo. Nói cách khác, không có người tạo ác nghiệp, không có phiền não của tham sân si, không có nhân nên họ không có quả báo. Mỗi người vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, công phu niệm Phật đắc lực rồi, có thể đè tham sân si xuống, tuy không đoạn được nhưng có khả năng đè xuống, khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, Phật lực vừa gia trì thì họ đoạn dứt ngay, cho nên họ liền được nhất tâm. Được lợi ích rất lớn. Học các pháp môn khác, việc đoạn phiền não phải hoàn toàn nhờ vào chính mình, hiện nay thì chúng ta chỉ cần đè một nửa, còn nửa kia Phật giúp đỡ thì chúng ta sẽ thành công. Cho nên Pháp môn này gọi là nhị lực pháp môn, được rất nhiều sự lợi ích.

❖ Nguyện thứ hai: Không đọa ba đường ác.

“Sở hữu nhất thiết chúng sanh, dĩ cập Diễm-ma-la giới, tam ác đạo trung, lai sanh ngã sát, thọ ngã pháp hóa, tất thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, bất phục cánh đọa ác thú.”
(Tất cả chúng sanh cho đến từ địa ngục trong ba đường ác sanh về cõi con, thọ pháp hóa của con, tất thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, không đọa lại ba đường ác nữa).

“Sở hữu nhất thiết chúng sanh”, đây là chỉ chúng sanh trong lục đạo. Dĩ cập Diễm-ma-la giới, Diễm-ma-la tức là vua Diêm-la, chúng ta gọi là Thập Điện Diêm Vương. Vị Diêm Vương ở điện thứ năm rất lợi hại, Diêm-la Vương Đệ Ngũ Điện còn gọi là Bình Đẳng Vương. Trong Kinh Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện có giới thiệu, Ngài quản lý địa ngục, trông coi địa ngục. Tam ác đạo là chỉ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ác nghiệp tập khí của chúng sanh trong ác đạo nặng nhất. Nếu họ có thể niệm Phật, nghe đến Pháp môn này, một lòng xưng niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh Độ thì cũng được vãng sanh. Cho nên Pháp môn này hễ đủ ba điều kiện: bạn thật tin, tin có A-di-đà Phật, tin có thế giới Thế giới Tây Phương Cực Lạc, tin niệm Phật nhất định có thể được A-di-đà Phật đến tiếp dẫn vãng sanh, bạn thật tin không hoài nghi. Thật sự muốn đi, đây là nguyện, thật sự muốn đi tức là ở nơi này phải buông xuống tất cả. Một mặt muốn đi mà mặt khác lại không buông được nơi này, thì đó là giả, không phải thật muốn. Thật muốn thì nhất định tất cả đều buông xuống, thân tâm thế giới tất cả buông xuống, trong tâm không còn vướng bận chướng ngại nữa, đây mới gọi là thật muốn đi, thì nhất định được sanh. A-di-đà Phật nhất định sẽ tiếp dẫn bạn. Chúng ta ở đây vừa phát tâm thì Ngài biết ngay, A-di-đà Phật hiểu ngay, cái duyên của chúng ta ở nơi đây chín muồi rồi thì Ngài đến tiếp dẫn. Khi thọ mạng chúng ta đến thì Phật đến tiếp dẫn, đến bên đó tiếp nhận sự giáo hóa của A-di-đà Phật, “thọ ngã pháp hóa”, “pháp” là phương pháp giáo học, hóa trừ hết ác nghiệp tập khí của chúng ta, “hóa” thành công đức vô lượng.

“Tất thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”, đây là thành Phật rồi. Đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc, tiếp nhận sự giáo hóa của A-di-đà Phật, nhất định là thành Phật, thành cứu cánh viên mãn Phật. Trong quá trình tu học này nhất định sẽ không đọa ác đạo nữa. Bởi vì trong đời quá khứ có những tập khí ác này, nếu không ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì tu hành sẽ có tiến, có thoái, việc thoái chuyển này rất có thể thoái chuyển đến tam ác đạo. Những thí dụ này rất nhiều. Đây là nói ở mười phương thế giới tu hành có khiếm khuyết, có thối đọa, còn ở thế giới Tây Phương không có thoái chuyển, tuyệt đối sẽ không rơi vào tam ác đạo nữa. Chúng ta đã tạo tội nghiệp cực nặng, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, hãy yên tâm! Nguyện này của A-di-đà Phật là bảo chứng, bảo đảm bạn sẽ không rơi vào ác đạo nữa.

“Đắc thị nguyện, nãi tác Phật. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Vô Thượng Chánh Giác”.
(Được như vậy con mới làm Phật. Nếu không được như nguyện, thề không thành Vô Thượng Chánh Giác).

Nguyện này của tôi phải viên mãn, thực hiện được rồi thì tôi thành Phật, nếu nguyện này của tôi không thể thực hiện, không thể viên mãn thì tôi thề không thành Phật. Hiện nay Phật A-di-đà thành Phật ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đã mười kiếp rồi, nguyện của Ngài toàn bộ đã được thực hiện rồi, mỗi câu, mỗi chữ đều là chân thật bất hư. Do đây có thể thấy bổn nguyện của A-di-đà Phật, bổn tâm của A-di-đà Phật thật sự là niệm niệm hy vọng tất cả chúng sanh mau thành Phật, nguyện này của Ngài vượt qua chư Phật, và Ngài thật sự đã làm được. Nguyện vọng này thật sự đã được thực hiện. Vấn đề là chúng sanh có tin hay không, có chịu phát nguyện cầu sanh hay không. Không phải Phật A-di-đà không có khả năng. Vấn đề là ở chính chúng ta có chịu hay không? Không chịu thì sao? Đó là chính chúng ta có chướng ngại, không chịu tức là chướng ngại. Nếu bạn hỏi chướng ngại gì? Bạn không mong muốn là chướng ngại. Khi ưng chịu thì chướng ngại không còn nữa. Ai chịu niệm Phật thì người đó được vãng sanh. Pháp môn này là Pháp môn bình đẳng, bất luận bạn tu học Đại Thừa, Tiểu Thừa, bất luận là bạn tạo ác, tạo thiện, không thành vấn đề, hễ bạn hồi tâm chuyển ý, thật sự chịu niệm Phật cầu nguyện vãng sanh thì người người đều đựơc sanh, điều này thật không thể nghĩ bàn. Công đức hy hữu đệ nhất. Chúng ta lại xem đoạn thứ hai:

❖ Nguyện thứ ba: Thân có sắc vàng ròng.

“Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, sở hữu chúng sanh, linh sanh ngã sát, giai cụ tử ma chân kim sắc thân”.
(Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh ở mười phương thế giới sanh về cõi con, đều được đầy đủ thân tướng sắc vàng ròng).

Trong chương này có ba nguyện, chúng ta phải xem từng nguyện một, như vậy sẽ rõ ràng hơn.

Chúng ta ở chỗ này phải đặc biệt lưu ý. Nguyện nói về tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đương nhiên bao gồm chúng ta trong đó, không có nói chúng sanh thế giới Ta-bà là ngoại lệ. Thế giới Hoa Tạng của Phật Tỳ-lô-giá-na cũng ở trong đó. Vậy có thể nói là tất cả thế giới của chư Phật đều bao gồm trong đó. Cho nên Ngài Văn-thù, Phổ Hiền cũng được vãng sanh. Chúng ta phải xem cho rõ ràng, thì mới biết được nguyện của Ngài quả thật là vĩ đại. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, thân tướng có được là bình đẳng, đều đầy đủ, người người đều là “tử ma chân kim sắc thân”. Chữ “ma” này ý nghĩa của thời xưa là chỉ cho vàng ròng, không có một tơ hào tạp chất. Đây là nói về thân thể của chúng ta khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hãy nhìn xem! Cái thân thể hiện nay của chúng ta vô cùng yếu ớt, nhục thân rất yếu ớt, vừa gặp phải một cơn gió lạnh thì ngã bệnh rồi, không đứng lên nổi, còn người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc ai ai cũng đều là kim sắc thân.

❖ Nguyện thứ tư: Ba mươi hai tướng tốt.

“Tam nhập nhị chủng, đại trượng phu tướng”.
(Ba mươi hai tướng đại trượng phu).

Đây là Thích-ca Mâu-ni Phật nói đến thế giới này của chúng ta, bởi vì ở thế giới này, tâm lượng con người rất nhỏ hẹp, nói ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, những tướng hảo đó là đến chỗ cứu cánh viên mãn rồi, nếu nói nhiều hơn thì vô phương tưởng tượng. Kỳ thật là không chỉ bấy nhiêu đó, trong đại kinh chúng ta thấy được thân Phật có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì tướng mạo của chúng ta cùng với Phật A-di-đà là một khuôn một mẫu vậy.

❖ Nguyện thứ năm: Thân không có sai biệt.

“Đoan chánh tịnh khiết, tất đồng nhất loại. Nhược hình mạo sai biệt, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh Giác”.
(Đoan chánh, tịnh khiết, đồng một dung nhan. Nếu có tốt xấu, hình thể sai biệt, thề không thành Chánh Giác).

Câu này phải ghi chặt vào lòng, người của thế giới Tây Phương Cực Lạc không có hai tướng mạo. Bạn thử xem, hiện nay đạo tràng chúng ta mọi người ngồi chung một nơi, tướng mạo mỗi người đều khác nhau, còn thế giới Tây Phương Cực Lạc dù người nhiều hơn đi nữa cũng chỉ có một tướng mạo, tuyệt đối không có hai tướng. Tướng mạo đều như nhau, vậy chúng ta có nhận lầm người không? Mọi người đều giống như Phật, vậy ai là A-di-đà Phật? Ai là Quán Thế Âm Bồ-tát đây? Chúng ta đi vãng sanh liệu có phải sẽ không phân biệt rõ ràng không? Việc này bạn hãy an tâm, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta đều có tha tâm thông, quá khứ, hiện tại, vị lai của mỗi người tất cả thảy đều rõ ràng, nhất định không nhận lầm người. Điều này hàm ý bên trong vô cùng sâu dày. Phía trước không phải đã nói rồi sao! Bốn mươi tám nguyện của Ngài là từ đâu đến? Là vì thấy được rất nhiều thế giới của chư Phật, chuyên tâm lựa chọn ở trong đó mà có. Người của mười phương thế giới có tướng mạo khác nhau, tướng mạo đẹp thì kiêu ngạo, còn tướng mạo xấu thì tự ti mặc cảm, đây là phiền não. Còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, mọi người đều có tướng mạo giống nhau thì không có kiêu ngạo cũng không có tự ti.

Phật A-di-đà thật là thông minh, Ngài dùng những phương pháp này thì tự nhiên tiêu trừ sạch hết tất cả phiền não của bạn. Hiển thị thế giới của Ngài là pháp giới bình đẳng. Cho nên trên đề Kinh này lấy phương pháp bình đẳng để độ tất cả chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là bình đẳng, không hai không khác với A-di-đà Phật. Chúng sanh trong mười phương thế giới có hình sắc không đồng. Thân tướng đoan chánh trang nghiêm có thể khiến người sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm cung kính. Thế nên, người của thế giới Tây Phương tướng mạo đoan chánh trang nghiêm, trong tất cả thế giới của chư Phật không sánh kịp. Vì thế nên học trò của A-di-đà Phật bất luận đi đến thế giới nào (hằng ngày đều đi đến mười phương thế giới để cúng dường chư Phật, đi độ hóa chúng sanh) đều được sự tôn kính của mọi người ở tất cả thế giới của chư Phật. Mọi người đều nhìn đệ tử của Phật Di-đà bằng ánh mắt kính trọng.

Tôi từng nói điều này với quý vị, ở thế gian này có nhiều người vô cùng ngưỡng mộ Di-lặc Bồ-tát, ưa thích tương lai sinh đến Tịnh Độ của Di-lặc Bồ-tát ở Nội Viện trời Đâu-suất. Tương lai Di-lặc Bồ-tát hạ sanh thành Phật, từng người một theo Ngài xuống đây giống như đệ tử của Thích-ca Mâu-ni Phật: Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên… theo Phật xuống thị hiện độ hóa chúng sanh. Họ có nguyện này, nguyện này tốt không? Thưa tốt, đáng được tán thán vô cùng. Tuy nhiên, tôi hiểu rất rõ, muốn vãng sanh đến Đâu-suất Nội Viện không phải một việc dễ dàng, vì sao? Tiêu chuẩn chọn học trò của Di-lặc Bồ-tát rất cao. Tôi nghĩ nếu tôi muốn vào nội viện của Ngài thì điểm của tôi không đủ, không có cách gì đi được. Thử xem Tịnh Độ của A-di-đà Phật, Ngài chọn học sinh điểm rất thấp, vô cùng thấp. Tôi nắm chắc có thể đi được. Nếu tôi đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, muốn trở về lại thế giới Ta-bà, trong Kinh này nói: “Mười vạn ức Phật độ, trong một sát-na là về đến”. Đi thân cận với Di-lặc Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát vừa trông thấy học trò của A-di-đà Phật thì đặc biệt hoan nghênh, dùng ánh mắt khác biệt mà nhìn, so với học trò của Ngài còn tốt hơn rất nhiều. Ta phải biết tính những bài toán này, chúng ta cũng có thể đến nội viện của Đâu-suất cũng có thể thân cận Di-lặc Bồ-tát, so với học trò của Ngài còn được chiêu đãi đặc biệt hơn.

Chúng ta nghe Di-lặc Bồ-tát giảng kinh, nhất định được ngồi ghế thượng tọa, những hàng ghế phía trước đều nhường cho chúng ta ngồi, còn học trò của Ngài thì ngồi phía sau. Cho nên đây là sự thật không thể không biết, đây là con đường dễ dàng nhất để thân cận Di-lặc Bồ-tát. Xin xem tiếp đoạn thứ ba:

Trong đoạn này bao gồm ba nguyện:

❖ Nguyện thứ sáu: Có túc mạng thông.

❖ Nguyện thứ bảy: Có thiên nhãn thông.

❖ Nguyện thứ tám: Có thiên nhĩ thông.

“Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, tự tri vô lượng kiếp thời túc mạng, sở tác thiện ác, giai năng đỗng thị, triệt thính, tri thập phương khứ lai hiện tại chi sự. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác”.

(Khi con thành Phật, các chúng sanh sanh về cõi con, tự biết các việc thiện ác đã làm trong vô lượng kiếp trước, có thể thấy rõ, nghe thông, biết tỏ các sự việc khắp mười phương, ba đời khứ lai hiện tại. Nếu không được như nguyện, thề không thành Chánh Giác).

Quý vị nên biết, người thế tục chúng ta gọi đây là thần thông. “Thông” là thông đạt vô ngại, “thần” là thần kỳ khôn sánh. Cái năng lực đặc biệt này hiện nay ở Đại Lục gọi là khả năng kỳ dị, khả năng đặc biệt, cách gọi này rất có đạo lý. Năng lực này của họ siêu việt người thường. Vậy thần thông từ đâu mà có? Là do “báo đức” mà được, do “tu đức” mà được. Chúng ta vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì có thần thông, đây gọi là báo đức, không phải là tu đức. Cái báo đức này là bổn nguyện của A-di-đà Phật gia trì. Nếu sanh đến bên ấy mà không có năng lực này thì A-di-đà Phật đã không thành Phật rồi. Năng lực, thần thông đó lớn cỡ nào? Vượt hơn A-la-hán. Năng lực túc mạng thông và tha tâm thông của A-la-hán chỉ biết được năm trăm đời, trước năm trăm đời và sau năm trăm đời thì họ không biết và cũng không hiểu được. Họ có phạm vi không lớn lắm. Vậy còn như thiên nhãn của Bồ-tát? Tùy vào địa vị của Bồ-tát, Bồ-tát địa vị càng cao thì năng lực của thiên nhãn càng rộng, có thể nhìn thấy một đại thiên thế giới, một trăm đại thiên thế giới, một ngàn đại thiên thế giới… Chỉ có thiên nhãn của Như Lai mới có thể nhìn thấy tận hư không khắp pháp giới tất cả thế giới của chư Phật, không nơi nào không thấy. Những người sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, năng lực thần thông của họ trong Kinh văn này nói là bằng với A-di-đà Phật, cái ưu tiên này đã chiếm khá lớn. Trong khi tu các Pháp môn khác thì phải tu đến Bát Địa Bồ-tát (năng lực của Bát Địa Bồ-tát rất gần với năng lực của Phật), phải tu ba đại a-tăng-kỳ kiếp. Chúng ta chỉ mới niệm Phật có vài năm, khi vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì có năng lực bằng với năng lực của Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Bồ-tát. Cho nên những vị Bồ-tát đó nhìn thấy chúng ta thì lắc đầu không tin được, nhưng cũng là sự thật. Cho nên hiểu rõ rồi, họ không thể không bội phục reo lên: “Ôi chao! quý vị thật quá may mắn! Thật quá phi thường! Chỉ tu vài ngày thì được rồi, còn tôi đã tu ba đại a-tăng-kỳ kiếp, tu khổ như thế mới có được, sao bạn chỉ trong chốc lát mà có được, vả lại những thứ bạn có được còn thù thắng hơn tôi! Còn vượt hơn tôi!” Sao có thể không bội phục chứ! Việc này tục ngữ chúng ta gọi là “gặp vận hên, gặp vận xui”, Bồ-tát không hên, chúng ta rất hên, trong phút chốc gặp pháp môn này thì thành công. Cho nên chúng ta phải để tâm quan sát cho kỹ lưỡng đoạn nguyện văn này.

“Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả”, đây là pháp bình đẳng, không có lựa chọn người của Hoa Tạng thế giới sanh đến, họ đương nhiên là Bồ-tát rồi, địa vị đó cao. Còn chúng ta là phàm phu, làm sao có thể so sánh được! Tất cả chúng sanh, đương nhiên là thập pháp giới, nói cách khác, toàn bộ đều được bao gồm trong đó. “Tự tri vô lượng kiếp thời túc mạng”. Không giống như A-la-hán chỉ biết được năm trăm đời trước, mà là vô lượng kiếp trước. Vừa vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc cho dù hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là như vậy. Bởi vì trong nguyện văn của Ngài không có nói trừ hạ hạ phẩm ra, cũng không có nói chỉ thượng phẩm thượng sanh mới có năng lực thần thông này. Nói cách khác, hạ hạ phẩm vãng sanh cũng có năng lực này, đây mới là pháp bình đẳng.

Hiện nay có rất nhiều người muốn biết tiền kiếp, đi tìm những người thông linh (những người giao tiếp được với quỷ thần), lại có người đi tìm cái gọi là thuật thôi miên, muốn biết đời trước, nhiều lắm cũng chỉ biết được một đời, hai đời, ba đời thì không biết được. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp, vô lượng kiếp đến nay bạn đều biết hết, hà tất phải đi tìm những thứ phiền phức này! Hiện nay trong xã hội chuyện lừa gạt rất nhiều, những người thông linh cho bạn biết đời trước chưa hẳn là thật, có thể mắc mưu, bị lừa mà mình vẫn không hay biết. Đến được thế giới Tây Phương, tự mình đều biết cả, đời đời, kiếp kiếp, việc thiện bạn làm, việc ác bạn làm đều biết toàn bộ, tự mình biết được đời đời kiếp kiếp trong quá khứ luân hồi tại đâu, từng ở thế giới nào, thảy đều biết hết cả. Bạn thảy đều nhớ hết cả, đều rõ hết bà con quyến thuộc của chính mình từ vô lượng kiếp đến nay… Một khi đến thế giới Tây Phương thì có năng lực này.

“Giai năng đỗng thị”, đây là thiên nhãn thông giống như Phật, ở chỗ này không nói giới hạn, bạn đều thấy được mười phương thế giới, vô lượng vô biên thế giới rõ ràng minh bạch. Chúng ta hiện nay rất đáng thương, phía dưới lầu bốn, nghe nói còn có rất nhiều người đang ở đó nghe kinh, chúng ta không nhìn thấy họ, nếu ở thế giới Cực Lạc thì là trong suốt, toàn bộ đều thấy cả, bên kia địa cầu là nước Mỹ cũng nhìn thấy rõ ràng mọi người đang làm gì. Xa hơn nữa, thế giới phương khác, tất cả thế giới của chư Phật đều ở trước mắt, họ có được năng lực này. Có khi trong tâm chúng ta bị tình cảm buộc ràng với người thân, người mà mình ưa thích, đều niệm niệm không quên hy vọng giúp đỡ họ. Chúng ta có cái tâm này, có cái nguyện này nhưng không có năng lực. Bạn phải biết, đến được thế giới Tây Phương Cực Lạc thì có năng lực này, thân thích, quyến thuộc của chúng ta, bất luận họ sanh vào đường nào, bạn đều thấy họ, họ nói chuyện bạn nghe được, bạn đều rõ ràng minh bạch tình trạng của họ, bạn có thể thường xuyên thị hiện đi giúp đỡ họ. Đó là thật sự có trí huệ, có năng lực. Tâm nguyện của chúng ta mới gọi là chân thật. Không vãng sanh thì tâm nguyện của chúng ta đều không đạt được mục đích vì không có năng lực.

“Triệt thính” là thiên nhĩ thông. Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới họ nói những tiếng gì bạn cũng nghe được rất rõ ràng, dù có nói khe khẽ cũng nghe được rất rõ, thật là thần thông quảng đại! Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết còn kém quá xa, Tôn Ngộ Không mới có bảy mươi hai phép, một cái cân đẩu vân nhào lộn là mười vạn dặm, không biết phải lộn bao nhiêu cái cân đẩu vân mới lên đến được. Còn đây thì không cần nhào lộn, chỉ một niệm là đến ngay, cho nên Tôn Ngộ Không nếu so sánh với người ở thế giới Cực Lạc thì cách nhau một trời một vực, thua kém quá xa! Năng lực đó quá nhỏ, không đáng nói đến. Bên trong này có năng lực thần thông như thế, có sự giúp đỡ vô cùng lớn lao đối với sự tu hành.

Chúng ta biết người thế gian vì sao có tham sân phiền não? Tại sao lại khởi hoặc tạo nghịêp? Thực tế là do mê nơi chân tướng sự thật của nhân quả nên mới khơi dậy những thứ mê hoặc, mới tạo nghiệp. Nếu thông rõ chân tướng sự thật này thì họ làm sao còn khởi phiền não, họ làm sao còn bị mê hoặc, làm sao còn tạo nghiệp nữa chứ? Cho nên A-di-đà Phật ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thiết kế những cách giáo học này thật sự đã khởi tác dụng rất lớn, tập khí phiền não từ vô thủy kiếp của chúng ta khi đến nơi đó thì bị hóa giải hết toàn bộ, tại sao vậy? Sự việc của quá khứ, hiện tại và vị lai đều biết cả, đều thấy được cả, đều nghe được cả, đều hiểu được cả. Như vậy so với chư Phật Như Lai khác giảng kinh, nói pháp thì đơn giản hơn rất nhiều. Phương pháp đích thực là cao minh. Biết mười phương, đó là về mặt không gian. Quá khứ, hiện tại và vị lai gọi là ba đời, thuộc về thời gian. Chuyện trong mười phương, ba đời, việc gì bạn cũng đều biết cả, đều rõ cả, đều thấu hiểu cả

“Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác”, A-di-đà Phật thành Phật rồi thì nguyện này cũng đã được thực hiện. Hiện nay có một số người nói họ có thần thông, có khả năng đặc biệt gì đó… thì bạn có thể nói với họ rằng: “Đây không có gì là phi thường, qua vài năm nữa, bạn làm sao sánh kịp tôi!” Đúng là như vậy. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thật này, thì nên nghiêm túc niệm Phật vài năm để vãng sanh thì tất cả đều được hết. Thần thông của Bồ-tát không thể so sánh với thần thông đức năng trên quả địa của Như Lai, tiểu thông của họ thì ăn thua gì! Chúng ta gọi năng lực của những người ở thế giới Cực Lạc là thần thông đức năng. Năng lực này tuyệt đối không phải như trong Kinh Đại Thừa nói tu được bằng thiền định cùng các phương pháp khác. Khi nãy đã nói đây là báo đức, là sự tu học trong ngàn ức năm của A-di-đà Phật, là sự thành tựu viên mãn của năm kiếp, Ngài đã dùng đức năng này mà gia trì cho chúng ta. Cái lý bên trong vô cùng thâm sâu, xét về mặt sự cũng kỳ diệu khôn sánh! Đạo lý vô cùng thâm sâu! Không phải là không có lý luận y cứ, nếu không có lý luận y cứ thì chúng ta xem thấy chỉ là chuyện thần thọai mà thôi. Cho nên Pháp môn này là “nan tín chi pháp”, đạo lý quá sâu! Ngay cả Đẳng Giác Bồ-tát nếu không được sự gia trì của Như Lai thì họ cũng không rõ, cho nên có thể tin được thì không phải dễ dàng. Phần cuối Kinh có nói người có thể tin là do thiện căn phước đức huân tập được của họ trong vô lượng kiếp đời quá khứ ngày nay đã thành tựu rồi. Nếu không phải là túc căn của vô lượng kiếp thành tựu, cho dù ngày nay bạn có gặp được cũng sẽ xem nó như tiểu thuyết, coi như huyền thoại, bạn sẽ không tin. Cho nên người bình thường không thể tin, không thể tiếp nhận được Pháp môn này. Tôi đã nói rất nhiều lần đó là việc bình thường. Nếu họ vừa mới nghe thì liền tin, liền tiếp nhận mới là việc rất không bình thường. Đây đều là sự thật, cho nên năng lực thông này của họ siêu việt hơn tất cả Bồ-tát, còn Thanh Văn, Duyên Giác thì càng không cần phải nói nữa. Xin xem tiếp đoạn thứ tư:

❖ Nguyện thứ chín: Có tha tâm thông.

“Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh”.
(Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh).

Hãy xem câu từ trong lời nguyện này. “Sở hữu chúng sanh” là bình đẳng, không có lựa chọn, hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới đều bình đẳng.

“Sanh ngã quốc giả, giai đắc tha tâm trí thông”.
(Sanh về cõi con đều được tha tâm trí thông).

Tha tâm thông, “Tha” là người khác, người khác khởi tâm động niệm họ đều biết. Cho nên quý vị đồng tu, quý vị phải để ý, phải cẩn thận, đừng tưởng rằng không có người hay biết ý niệm khởi trong tâm bạn, người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc ai nấy đều biết cả. Họ thấy được tất cả cử động của bạn, bạn nói chuyện khe khẽ với người khác, họ nghe được, bạn khởi tâm động niệm họ cũng biết được, đừng tưởng không có người biết. Người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc rất nhiều, đếm không hết, tất thảy đều biết. Đây đều là sự thật, cho nên muốn làm học trò của A-di-đà Phật, là một đệ tử Phật, tương lai là bạn học của họ thì khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của chúng ta, họ đều trông thấy cả, họ đều nghe thấy cả, họ đều hiểu biết cả, không một thứ gì lừa được họ. Chúng ta có đáng mặt tham dự pháp hội của họ không? A-di-đà Phật cho dù có từ bi muốn tiếp dẫn chúng ta nhưng nhóm bạn học kia không tiếp nhận chúng ta thì A-di-đà Phật sẽ không đến tiếp dẫn. Phải nên nghĩ đến những điều này, đức năng tương lai của chính chúng ta, những bạn đồng tu ấy hiện nay đều đầy đủ cả.

Cho nên tâm địa của người niệm Phật phải thanh tịnh, phải chánh đại quang minh, không làm những việc trái với lương tâm. Kẻ khác có lỗi với ta thì được nhưng ta không thể có lỗi với người, kẻ khác gạt ta thì được nhưng ta không gạt người. Vì sao vậy? Họ làm đó là nghiệp luân hồi, còn ta ngày nay tạo tác là phải sanh về Tây Phương. Tất cả những gì của ta phải lấy thế giới Tây Phương Cực Lạc làm tiêu chuẩn, tiêu chuẩn của thế giới Tây Phương là bốn mươi tám nguyện, là Kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta đều phải làm được những gì đã nói trong Kinh Vô Lượng Thọ, như vậy mới có thể sanh về Tây Phương, mới có thể tăng cao phẩm vị.

“Nhược bất tất tri ức na-do-tha bá thiên Phật sát, chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh Giác”.
(Nếu không biết được hết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật, thề không thành Chánh Giác).

Phần nguyện văn này rõ ràng, minh bạch biết mấy! “Ức na-do-tha” tức là vô lượng vô biên thế giới của chư Phật, trong đó tâm của tất cả chúng sanh tưởng những gì, niệm những gì, họ thảy đều biết cả. Năng lực này đích thực đã vượt hơn Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ-tát, cho đến bốn mươi mốt vị pháp thân Đại Sĩ trong hội Hoa Nghiêm, tuyệt đại đa số đều không thể sánh được với họ. Năng lực này là Bát Địa Bồ-tát trở lên, Bát Địa trở xuống đều không thể sánh được với họ. Cho nên thần thông trí huệ của họ, cái đạo lực siêu thắng này, quả thật đã đạt đến chỗ cùng cực! Cũng vì sự thật này mà tất cả chư Phật không thể không tán thán A-di-đà Phật, không thể không bội phục A-di-đà Phật, cũng không thể không đem tất cả học trò của mình thảy đều giới thiệu cho A-di-đà Phật. Cho nên hiện nay chư Phật độ chúng sanh tiện lợi hơn, dùng phương pháp gì? Là đều khuyên họ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì được phổ độ, đều đưa họ về thế giới Tây Phương Cực Lạc giao cho A-di-đà Phật độ.

Cho nên hiện nay tất cả chư Phật Như Lai ở mười phương thế giới đều là giúp A-di-đà Phật tuyển sinh. Những người không vâng lời thì nói với họ Phật pháp Nhị Thừa, Tam Thừa. Còn họ vâng lời thì đưa về thế giới Cực Lạc là lập tức thành Phật. Chúng ta ở tại chỗ này mới hiểu rõ, mới nhìn ra được sự thật chân tướng này. Những vị Bồ-tát, những người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc có năng lực như vậy, cũng tức là nói “tri kỷ tri bỉ” (biết mình biết người). Họ có túc mạng thông là “tự tri”, từ vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp tự biết rõ mình, tự hiểu rõ mình, “tự tri” là biết mình. Biết kẻ khác là “tri bỉ”. “Tri kỷ tri bỉ” thì giáo hóa chúng sanh mới khế cơ, chúng sanh mới dễ được độ. Cho nên họ mỗi ngày đến mười phương cõi nước của chư Phật, cúng Phật, nghe pháp, còn tùy duyên độ chúng sanh, họ có năng lực như vậy. Chúng ta tự hỏi, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc bao lâu mới có được năng lực này? Chỗ này không có nói sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc phải một kiếp, hai kiếp mới có được năng lực này. Vậy thì vừa đến thì có năng lực này. Nhất định là ý nghĩa này, vừa đến là có, vừa thấy A-di-đà Phật thì năng lực này được khôi phục ngay. Thật sự mà nói, đây không phải là khôi phục mà là Phật lực gia trì mãi cho đến khi chúng ta ở thế giới Tây Phương Cực Lạc tu hành. Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc tu hành mức tiến bộ vô cùng nhanh chóng! Nhất định không thoái chuyển. Bởi vì không chỉ tiếp nhận sự giáo hóa của một mình A-di-đà Phật, mà bạn mỗi ngày đi tham vấn mười phương tất cả chư Phật. Bạn nghĩ thử xem, bạn mỗi ngày nghe bao nhiêu Phật pháp, bao nhiêu vị Phật nói pháp cho bạn, cho nên sự tiến bộ đương nhiên là nhanh chóng. Cho đến khi bạn thật sự chứng được Thập Địa rồi, A-di-đà Phật vẫn gia trì bạn, khiến cho đạo lực, trí huệ, thần thông của bạn so với các vị Thập Địa Bồ-tát khác còn cao minh hơn. Đây là thế giới Tây Phương thù thắng không gì sánh bằng! Vì sao lại không chịu đi? Xưa kia thầy Lý có nói, “người không chịu vãng sanh thì người đó nếu không ngu si thì là cuồng vọng”. Nói cách khác là không bình thường, người bình thường thì chẳng ai không tin, không muốn vãng sanh cả.

Đây là đoạn thứ năm của đại nguyện.

❖ Nguyện thứ mười: Có thần túc thông.

❖ Nguyện thứ mười một: Cúng dường khắp chư Phật.

“Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đắc thần thông tự tại Ba-la-mật-đa. Ư nhất niệm khoảnh, bất năng siêu quá ức na-do-tha bá thiên Phật sát châu biến tuần lịch, cúng dường chư Phật giả, bất thủ Chánh Giác”.
(Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh sanh về cõi con đều được thần thông tự tại Ba-la-mật-đa. Trong khoảnh khắc nếu không thể đến khắp trăm ngàn vạn ức cõi Phật để cúng dường, thề không thành Chánh Giác).

Nguyện thứ mười này cũng là thuộc về những khả năng đặc biệt mà phía trước đã giới thiệu qua. Mọi người của thế giới Tây Phương đều có đầy đủ túc mạng thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm trí thông. Ở đây, chúng ta thấy đoạn này là thần thông tự tại, tức là thần túc thông. “Túc” vốn là nghĩa là viên mãn, “thần túc” nghĩa là biến hóa tự tại.

Đến bờ Niết-bàn bên kia cần có trí huệ của quả địa Phật, muốn được Phật trí thì cần phải phụng sự nhiều vị Phật mới có thể thành tựu trí huệ của Phật quả. Nếu mình không có thần túc thông thì sẽ rất khó làm được, bởi vậy thần túc thông đối với người tu hành là vô cùng quan trọng. Thế giới vô lượng vô biên, chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng ta nếu đi thừa sự cúng dường từng vị Phật một thì có thể nói là vô lượng kiếp cũng cúng dường không hết. Vì vậy nên nhất định phải có bản lĩnh phân thân, có thể cùng một lúc phân ra trăm ngàn ức hóa thân (giống như Thích-ca Mâu-ni Phật nói ở trong Kinh Phạm Võng) đồng thời đi cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, vậy mới có thể làm nổi. Mọi người của thế giới Tây Phương Cực Lạc đích thật có được năng lực này.

Vậy như thân phận của chúng ta đây, một phẩm phiền não còn chưa phá, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì làm sao có được thứ năng lực này? Năng lực này không phải định nhỏ mà có thể đạt được, phải cần có công phu tương đối. Bình thường, người thường tu thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông không khó, túc mạng, tha tâm thì khó hơn, đến biến hóa tự tại thì càng khó hơn nữa. Cho nên ở Tiểu Thừa, có thần túc thông phải là Thánh nhân Tam Quả mới có thể có được. Sơ Quả, Nhị Quả thì chưa có (Sơ Quả có thiên nhãn thông), cho nên đây là công phu rất sâu. Chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì lập tức năng lực này hầu như bằng với Thập Địa Bồ-tát. Đây hoàn toàn là nhờ vào bổn nguyện gia trì của Phật.

Pháp Tạng nói lúc Ngài làm Phật, Ngài hiện nay đã làm Phật mười kiếp rồi. “Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả”, chúng ta phải xem câu nói này cho rõ ràng, “sở hữu chúng sanh” này đương nhiên là bao gồm Phàm Thánh Đồng Cư Độ hạ hạ phẩm vãng sanh, chúng ta đương nhiên có phần. Sanh đến bên đó đều được “thần thông tự tại Ba-la-mật-đa”. Thần thông tự tại, khi nãy vừa nói tức là thần túc, thiên biến vạn hóa. “Ba-la-mật-đa”, câu này là Phạn ngữ, ý nghĩa là “viên mãn”, thần thông tự tại viên mãn. Nếu nói một cách nghiêm khắc thì chỉ Phật mới có, năng lực này của Phật mới gọi là chân thật viên mãn, Bồ-tát tuy có vẫn không viên mãn, đây là oai thần của Di-đà gia trì, thật không thể nghĩ bàn. Còn phần dưới không chỉ là nêu một ví dụ nói rõ sự cứu cánh viên mãn của năng lực này mà còn nói cho chúng ta một sự việc không thể nghĩ bàn, đó tức là cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Sự cúng dường này khi nãy đã nói rồi, nhất định là dùng thần lực phân thân biến hóa, đồng thời đi cúng dường.

“Ư nhất niệm khoảnh”, trong một niệm là có thể đến được, tốc độ không thể nghĩ bàn. Một niệm dài cỡ nào? Trong Kinh Phật nói, một người rất khoẻ, rất cường tráng, rất dũng mãnh họ khảy ngón tay (búng tay), (chúng ta thân thể yếu thì khảy rất chậm, người có sức khỏe tốt họ khảy rất nhanh lại còn có sức mạnh) thời gian một cái búng tay có sáu mươi sát-na, một sát-na có chín trăm ý niệm. Có thể thấy ý niệm này rất vi tế, thời gian rất ngắn, trong một niệm tức là thời gian rất ngắn, trong tâm vừa động niệm thì đã đến rồi. Thế giới Cực Lạc cách thế giới Ta-bà của chúng ta mười vạn ức cõi nước Phật, một niệm liền đến ngay. Kỳ thật khoảng cách này rất ngắn. Thế Tôn trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ta-bà và Cực Lạc đều ở trong Hoa Tạng thế giới, Hoa Tạng thế giới có hai mươi tầng mà hai thế giới này đều ở tầng thứ mười ba, có thể thấy đích thực không xa. Hoa Tạng thế giới, một đại thế giới lớn như vậy, Phật nói ở giữa thái hư không là vô lượng vô biên, khoảng cách đó thì không biết là bao xa, khoảng cách có xa hơn thì cũng chỉ một niệm là đến ngay”. Đây là đạo lý gì? Thật tại mà nói, “vô biên cõi nước không ngoài nhất tâm” đều là vật do tự tánh chân tâm biến hiện ra. Cho nên tâm này vừa động niệm thì đến ngay. Ngày nay chúng ta không có năng lực phân thân, chúng ta biết động niệm nhưng không đến được, người thế giới Tây Phương Cực Lạc có năng lực này, họ vừa động niệm thì thân của họ liền đến ngay, đây là phân thân, là hóa thân.

“Ư nhất niệm khoảnh bất năng siêu quá ức na-do-tha bá thiên Phật sát”. Đây là năng lực của Ngài trong một niệm, đích thực như trong đại kinh có nói: “Thập phương bất ly đương xứ, tam thế bất cách đương niệm” (mười phương chẳng rời khỏi nơi này, ba đời không lìa xa niệm này) những thứ này là lợi ích chân thật mà kinh Đại Thừa nói đến. Vậy đi đến mười phương cõi Phật để làm gì? “Châu biến tuần lịch cúng dường chư Phật”, đây là nói cõi nước Phật nơi mà chư Bồ-tát du lịch đến [rất] rộng và nhiều. Chỗ cúng dường thừa sự Phật cũng vô cùng nhiều. Bạn đến cúng dường Phật, Phật nhất định sẽ không để bạn cúng dường uổng công, Phật nhất định nói pháp cho bạn. Một vị Phật nói với bạn một câu Phật pháp, trong một ngày bạn cúng dường vô lượng Phật thì bạn nghe vô lượng câu pháp. Các pháp mà bạn nghe được trong một ngày còn nhiều hơn Đại Tạng Kinh của chúng ta không biết bao nhiêu lần. Tiến độ học tập của người ở thế giới Cực Lạc [rất] nhanh. Trong các kinh điển của Tịnh Tông chúng ta quan sát kỹ lưỡng, vãng sanh đến thế giới Tây Phương thành Phật nhanh, ở thế giới phương khác thành Phật phải mất ba đại a-tăng-kỳ kiếp, phải mất vô lượng kiếp. Ở thế giới Tây Phương chúng ta tính kỹ cũng không quá ba kiếp, bốn kiếp thì thành tựu, vì họ học tập như vậy, họ có bản lãnh thân cận tất cả chư Phật.

Đoạn thứ sáu của đại nguyện.

❖ Nguyện thứ mười hai: Quyết định thành bậc Chánh Giác.

“Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, viễn ly phân biệt, chư căn tịch tĩnh. Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết-bàn giả, bất thủ Chánh Giác”.
(Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh sanh về cõi con, xa lìa tâm phân biệt, các căn tịch tĩnh. Nếu chẳng quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng đại Niết-bàn, thề không thành Chánh Giác).

Nguyện này là Phật A-di-đà viết ra cho chúng ta một giấy bảo đảm để bảo đảm thành Phật, nguyện này rất quan trọng. “Sở hữu chúng sanh” là bao gồm chúng ta trong đó. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, “viễn ly phân biệt”, đây là “giới” cùng “định”, trong “giới” có “định”. “Chư căn tịch tĩnh”, đây là trong “định” có “giới”. Do đây có thể biết, ở thế giới Tây Phương, “giới định huệ” là viên dung, một tức là ba, ba tức là một, tùy tiện nói một cái thì nhất định hàm nhiếp hai thứ kia, “viên tu, viên chứng”. Phía trước đã nói cúng khắp chư Phật mà có được trí huệ của Phật, cho nên tu học không có một pháp nào là không viên. Tất cả chư pháp vốn “tịch tĩnh”. Hiện nay, cảm xúc của chúng ta rất không tịch tĩnh, thật tại mà nói, nó vốn là tịch tĩnh, vậy hiện nay thì sao? Hiện nay vẫn là tịch tĩnh. Nếu không phải tịch tĩnh thì vì sao chư Phật Như Lai thấy được đó là tướng tịch tĩnh còn chúng ta thì không thấy! Do đây có thể biết, chướng ngại này không phải ở trên cảnh giới mà ở ngay nơi bản thân chúng ta có bệnh, có vấn đề, vấn đề gì? Thân tâm chúng ta đã động, tâm vừa động thì tất cả pháp đều thành đối lập: có sanh có diệt, có đến có đi, có thị có phi (có đúng có sai). Những hiện tượng này vốn là không có.

Ngài Mã Minh Bồ-tát trong Khởi Tín Luận nói với chúng ta: “Bổn giác bổn hữu, bất giác bổn vô” (bổn giác vốn có, bất giác vốn không). Nó vốn không có, đây tức là “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (một niệm bất giác mà có vô minh), “vô minh” tức là tướng “động”, vậy thì không “tịch tĩnh” rồi, trái ngược với tánh đức. Trong cảnh giới nhất chân tức là trong cảnh giới chân thật “phi hữu phi vô”, không có phân biệt, không có chấp trước, nếu dùng cách nói của chúng ta mà nói là chư căn tịch tĩnh, viễn ly si ám, phân biệt. Người học Phật tu hành trong vô lượng kiếp, tu điều gì? Là tu việc này, sửa đổi sai lầm, sửa đổi tập khí, khôi phục đến chư căn tịch tĩnh. Đó gọi là tu hành. Tịch tĩnh đến trình độ thích đáng thì kiến tánh, bỗng nhiên khai ngộ, kiến tánh thì là gọi thành Phật.

“Nhược bất quyết định thành Đẳng Chánh Giác” (Nếu chẳng quyết định thành Đẳng Chánh Giác), nhất định chứng đại Niết-bàn, đây là chứng đắc Phật quả cứu cánh của Viên Giáo, chúng ta nói là thành Phật. Tông Thiên Thai có Tạng Thông Biệt Viên, có bốn loại Phật, bạn thành đó là loại nào? Đó là quả vị Phật Viên Giáo rốt ráo. Do đây có thể biết vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc trong một đời nhất định thành Phật, đây là đại nguyện không thể nghĩ bàn của Di-đà.

Cho nên người xưa gọi pháp môn này là “Phật pháp thành tựu ngay trong đời này”. Ngoại trừ pháp môn này ra, tu học bất cứ pháp môn nào đều không thể thành tựu ngay trong một đời, phải đến ba đại a-tăng-kỳ kiếp, phải vô lượng kiếp. Còn pháp môn này thì giúp chúng ta ngay trong một đời là thành tựu. Có lẽ bạn sẽ có nghi vấn: “Vậy chúng ta chết rồi, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thành tựu phải không?”. Lời này bạn nói sai rồi, bạn cũng thấy sai rồi, bạn cũng hiểu lầm rồi, nếu bạn chết thì hỏng rồi, bạn còn có thể thành tựu sao? Chết rồi là đi luân hồi, xin thật tình nói với bạn: “Chết rồi thì đáng sợ lắm! Không còn cứu được nữa, không thể chết”. Pháp môn này không thể chết, khi thọ mạng chúng ta đến rồi, lẽ ra phải chết, nhưng không chết, A-di-đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta đến thế giới Cực Lạc.

Cho nên quý vị nên biết, vãng sanh là sống mà ra đi lúc chưa dứt hơi, lúc lâm chung thấy Phật đến tiếp dẫn, cùng đi với Phật, thân thể này không cần nữa, vứt bỏ đi. Không phải chết rồi mới đi. Điều này quý vị phải hiểu rõ, phải minh bạch. Cho nên pháp môn này thật sự là “pháp môn bất tử”. Cái túi da thối này không phải là đồ tốt, là gánh nặng phiền lụy đấy! Chúng ta bình thường không cách chi vứt bỏ, khi Phật đến, nhờ Phật lực gia trì chúng ta mới có thể vứt bỏ nó, theo Phật mà đi.

Con người không thể không tu phước, phước báo vô cùng quan trọng. Tôi hay khuyến tấn các bạn đồng tu phải tu Tam Phước, phải tu Lục Hòa, phải tu Lục Độ, đây đều là tu phước. Tu phước nhưng đừng hưởng phước, đừng nên hưởng hết phước, giữ phước báo lại sau cùng mới hưởng, sau cùng là lúc nào vậy? Là lúc vãng sanh, người thật sự có phước báo không sanh bệnh, biết được ngày giờ ra đi. Khi Phật đến rước bạn, ngồi mà đi cũng được, đứng mà đi cũng được. Bạn xem! Cách đó tự tại biết bao! Đó gọi là có phước báo. Phước báo cả một đời của họ giữ đến lúc đó mới hưởng. Cách này thật tự tại, tự tại mà vãng sanh.

Trước kia, khi tôi thọ giới, vị Hòa Thượng truyền giới của chúng tôi là lão Pháp Sư Đạo Nguyên kể cho chúng tôi nghe một công án. Trong Phật môn gọi là công án, người thường gọi là câu chuyện, nhưng là thật không phải giả. Xưa kia, có một vị xuất gia lúc vãng sanh hỏi mọi người: “Quý vị đã từng thấy người ngồi mà vãng sanh chưa?”. Những người ở đó nói: “Có”. “Còn đứng mà vãng sanh thì sao?”. “Cũng có nghe qua.” Ông ta lộn nhào một cái, đầu hướng xuống dưới, chân đưa lên trên trời, ông nói: “Cách vãng sanh như thế này quý vị có nghe qua chưa?”. “Chưa”. Thì ông qua đời, thật có phước báo. Đây là cách du hí nhân gian. Chúng ta vãng sanh, phải vãng sanh như vậy mới là tự tại, nằm trên giường mang bệnh mà ra đi thì kém rất xa. Đó là không có phước báo.

Không có phước báo, sanh bệnh, lúc lâm chung vãng sanh, chúng ta thường giúp người khác trợ niệm thấy được tướng lành, khi họ sắp ra đi tướng mạo trở thành rất đẹp, miệng vẫn còn đang cử động nhưng không có tiếng, những người niệm Phật chúng ta ngỡ rằng họ đang niệm Phật, kỳ thật không phải. Kỳ thật là họ nói, họ thấy Phật đến tiếp dẫn họ, họ muốn nói với mọi người, từ biệt mọi người, nhưng sức lực họ không đủ nên nói không ra tiếng. Kỳ thật là họ thấy được Phật, đều là còn sống mà ra đi, không phải là chết rồi mới đi. Cho nên pháp môn này đích thực là “Pháp môn bất tử”. Chúng ta sống mà vãng sanh, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là một đời thành Phật, không cần trải qua đời thứ hai, quyết định thành Đẳng Chánh Giác, chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây mới hiển hiện ra bổn tâm và bổn nguỵên của A-di-đà Phật, chỉ một kỳ vọng duy nhất là quảng độ vô biên chúng sanh, giúp đỡ mọi người trong một đời chứng được cứu cánh Niết-bàn. Sáu nguyện phía trước đều nói rõ sự vi diệu của báo thân khi sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thật sự không thể nghĩ bàn. Không chỉ là trí huệ thần thông, đạo lực đầy đủ mà Đức Di-đà còn bảo đảm cho chúng ta trong một đời viên mãn thành Phật quả. Chúng ta tụng đến chỗ này làm sao mà không đi cho được! Không có lý do không đi.

Xin xem tiếp đoạn thứ bảy:

❖ Nguyện thứ mười ba: Ánh sáng vô lượng.

“Ngã tác Phật thời, quang minh vô lượng, phổ chiếu thập phương, tuyệt thắng chư Phật, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên vạn ức bội”.

(Khi con thành Phật, có quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương, vượt hơn quang minh của chư Phật, gấp ngàn vạn ức lần ánh sáng của nhật nguyệt).

Đây là nguyện quang minh vô lượng. Trong nhiều Kinh luận nói, thông thường ánh sáng của chư Phật chiếu một hai trăm vạn thế giới, ánh sáng của A-di-đà Phật là vô lượng là nguyên nhân gì vậy? Chúng ta xem thấy trong nhân địa của Di-đà, Ngài tiếp thu lời dạy bảo của thầy Ngài ngàn ức năm, thầy Ngài giới thiệu tất cả các thế giới của chư Phật trong tận hư không khắp pháp giới, vả lại Ngài đều thấy được tất cả. Cái duyên này thật quá thù thắng. Tất cả thế giới của chư Phật, Ngài không bỏ sót một nơi nào, đều đã từng đi ngắm cảnh tham học qua. Do đây Ngài thành Phật rồi thì ánh sáng của Ngài chiếu cùng khắp không phải vài trăm, vài ngàn cõi Phật mà là vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật. Quá khứ có nhân duyên này thì ngày nay có quả báo như vậy.

“Tuyệt thắng chư Phật”, “tuyệt” là tuyệt đối, “thắng” là siêu thắng. Ánh sáng của tất cả chư Phật không thể so sánh với ánh sáng của A-di-đà Phật. Cho nên phần sau Thế Tôn tán thán A-di-đà Phật là “quang trung cực tôn”, tức là cái nguyện này, quang trung cực tôn. “Thắng ư nhật nguyệt chi minh” (vượt hơn ánh sáng của nhật nguyệt). Ánh quang minh tột cùng của thế giới này là nhật nguyệt, ánh sáng của nhật nguyệt không thể so sánh với ánh sáng của Phật. Ánh sáng của Phật lớn. Có lẽ có người sẽ hỏi: “Phật quang lớn như vậy sao chúng ta nhìn không thấy?”. Phật quang thật sự là chiếu khắp, chúng ta ngày nay nhìn không thấy là vì nhãn căn của chúng ta có bệnh, không dùng được. Hiện nay khoa học chứng minh cho chúng ta, các nhà khoa học biết được có rất nhiều loại sóng ánh sáng khác nhau trong vũ trụ, nhục nhãn chúng ta chỉ có thể nhìn thấy một đoạn nhỏ trong vô số luồng ánh sáng này mà thôi. So với đoạn nhỏ này, luồng ánh sáng dài hơn thì chúng ta không thấy, luồng ánh sáng ngắn hơn chúng ta cũng không thấy, nhưng lợi dụng công cụ khoa học thì có thể trắc nghiệm ra như: nhục nhãn chúng ta nhìn không thấy tia X, tia tử ngoại, quả thật nó tồn tại. Dụng cụ khoa học có thể hiện ra rất nhiều luồng ánh sáng khác nhau. Ánh sáng của A-di-đà Phật là không nơi nào không chiếu đến, nhưng vì nhãn căn của chúng ta có bệnh, bệnh là từ đâu đến? Phật nói bệnh căn này là do “vọng tưởng, chấp trước”. Giả sử chúng ta có thể loại bỏ vọng tưởng chấp trước, khôi phục lại tâm thanh tịnh thì năng lực của chúng ta liền khôi phục ngay.

Phía trước đã nói đến thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm thông, bản năng đều khôi phục cả thì chúng ta sẽ thấy được ánh sáng của A-di-đà Phật. Thật sự mà nói, chúng ta ban ngày không cần đến ánh sáng của mặt trời, ban đêm cũng không cần nhờ ánh đèn, tại vì sao? Thế giới này là một mảng quang minh, trong kinh Đại Thừa nói đến Đại Quang Minh Tạng.

Thế giới này của chúng ta cũng là như vậy, nếu bạn không tin, bạn cứ thử xem Niên Phổ của lão Hòa Thượng Hư Vân, thư viện của chúng ta ở đây cũng có. Lão Hòa Thượng Hư Vân không thể nói dối, trong quyển Niên Phổ có ghi lại một đoạn công án. “Lão Hòa Thượng có một buổi chiều trở lại căn chòi tranh của mình, có lẽ đường rất xa. Ngài đi được nửa đường thì gặp hai người quen, cũng là người xuất gia, họ cầm đèn lồng, gặp lão Hòa Thượng Hư Vân họ nói: “Ô kìa! Lão Hòa Thượng, trời đã tối như vầy mà Ngài còn thấy được sao?”. Họ vừa nói lời này thì trước mắt lão Hòa thượng trở thành một màn đen dày đặc. Khi mới đi, trời còn sáng, Ngài không có phân biệt, Ngài không có ý niệm đối với giờ giấc, cảnh giới ấy vĩnh viễn bảo tồn ở đó. Khi nghe người ta nói: “Trời tối rồi!”, Ngài liền khởi phân biệt thì thấy trời tối ngay. Lão Hòa Thượng Hư Vân nếu cứ mãi không có tâm phân biệt, đến ngay ngày hôm sau trời lại sáng, suốt một đêm trong cảnh giới của Ngài thì trời đều sáng cả.” Đây là chân tướng của sự thật, một chút cũng không giả. Phàm phu chúng ta vì vọng tưởng phân biệt chấp trước mà tạo ra rất nhiều chướng ngại.

❖ Nguyện thứ mười bốn: Chạm quang minh được an lạc.

“Nhược hữu chúng sanh kiến ngã quang minh, chiếu xúc kỳ thân, mạc bất an lạc, từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Nếu có chúng sanh nào thấy hay chạm được ánh sáng của con thì được an lạc, khởi từ tâm làm điều lành, sau sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Cho nên Phật được gọi là Vô Lượng Quang Phật, quang minh biến chiếu. “Nhược hữu chúng sanh kiến ngã quang minh”, hoặc là thấy được bằng thiên nhãn, thiên nhãn của A-la-hán và Bồ-tát có thể thấy được, hoặc là thấy được trong định, những người chân chánh tu định những người được định, người niệm Phật được Sự nhất tâm, Lý nhất tâm, đắc Nhất tâm bất loạn thì trong định có thể thấy được. Vẫn còn một loại là cơ duyên đặc biệt, do cảm ứng mà thấy được Phật quang. Phật quang có sức mạnh tiêu nghiệp diệt tội rất lớn, dù không thể đoạn tam độc phiền não cũng có thể dập tắt, không khởi tác dụng.

Nếu người có nghịêp chướng nhẹ, Phật quang vừa gia trì thì phiền não thật sự đoạn ngay, tham sân si là phiền não rất thô. Đây là an, khổ không còn nữa, khổ diệt rồi thì vui, thảy đều an lạc. Phiền não nhẹ thì trí huệ tăng trưởng, người này nhất định sẽ sinh khởi tâm từ bi, nhất định không làm ác, nhất định sẽ làm thiện. Tâm từ làm việc thiện tự nhiên sanh khởi, không cần kẻ khác khuyên họ, cũng không phải tự mình miễn cưỡng làm mà là tự nhiên. Mỗi ngày, trừ những việc này ra thì không có việc nào đáng làm. Tức là có tâm đại từ bi giúp đỡ tất cả mọi người “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Nói cụ thể là giúp đỡ tất cả mọi người nhận thức Tịnh Độ, hiểu rõ Tịnh Độ, tu học Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ. Đây là “từ tâm tác thiện” đạt đến chỗ tối chân thật không có gì chân thật hơn nữa. Cho nên “lai sanh ngã quốc”.

Xin xem tiếp đoạn thứ tám:

❖ Nguyện thứ mười lăm: Thọ mạng vô lượng.

❖ Nguyện thứ mười sáu: Thanh Văn vô số.

“Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng”.
(Khi con thành Phật, sống lâu vô lượng).

Đoạn trước là quang minh vô lượng, thật tại mà nói, Đức Di-đà thành Phật là tất cả vô lượng, nhưng ở trong hội Tự Tại Vương Phật, Ngài đề ra báo cáo này, trong bốn mươi tám nguyện chỉ đặc biệt nói đến hai điều này (quang minh và thọ mạng). Thế Tôn giảng kinh A-di-đà, giới thiệu cho chúng ta, cũng đặc biệt chỉ ra vô lượng quang, vô lượng thọ. Trong tất cả vô lượng thì hai ý nghĩa này là tối viên mãn, quang minh đại biểu cho mười phương, quang minh chiếu khắp không gian. Còn thọ mạng? Quá khứ, hiện tại, vị lai là đại biểu cho thời gian, người hiện nay gọi là thời gian và không gian.

Trong thời gian và không gian có đủ tất cả, không thiếu sót một thứ nào, cho nên vô lượng thọ cùng vô lượng quang là đại biểu cho thời không, rộng lớn không bờ mé, bên trong đó Đức Di-đà thảy đều đầy đủ tất cả mọi thứ vô lượng, không thiếu sót một thứ nào. Tuy nhiên, trong tất cả cái vô lượng, thọ mạng là quan trọng nhất, thọ mạng là đệ nhất đức trong các thứ vô lượng. Quý vị thử nghĩ, nếu thọ mạng không còn nữa, vậy thì bạn có tiền của vô lượng, quyến thuộc vô lượng, ai sẽ thọ dụng đây? Thảy đều vô ích. Có được vô lượng thọ thì tất cả các thứ vô lượng khác bạn mới có thể thọ hưởng được, mới không đến nỗi vô ích, cho nên thọ mạng là vô cùng quan trọng! A-di-đà Phật tại thế giới Tây Phương thị hiện làm Phật, thọ mạng vô lượng nên gọi là Vô Lượng Thọ Phật. Căn bản của Cực Lạc là ở nguyện này, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Thọ.

“Quốc trung Thanh Văn thiên nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng”.
(Vô số Thanh Văn và trời người trong nước cũng có thọ mạng vô lượng).

Phàm người sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát. Ở đây nói đến Thanh Văn, trời, người, vì sao có Thanh Văn, trời, người? Thế Tôn ở phần sau bản kinh có nói rõ chân tướng sự thật này, danh từ này là tỉ dụ. Chúng ta sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, kiến tư phiền não chưa đoạn hết thì chính là trời người, giống như chúng sanh lục đạo của thế giới phương khác. Đây là nói về mức độ đoạn phiền não, bạn giống với phàm phu lục đạo ở thế giới phương khác, phiền não chưa đoạn hết. Kiến tư phiền não hết rồi, vô minh chưa phá, thì giống như Thanh Văn của thế giới phương khác, là cách nói như vậy. Đây là nói về trình độ thực chất của chính chúng ta. Sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A-duy-việt-trí Bồ-tát, đó là do bổn nguyện của A-di-đà Phật gia trì, không phải do chúng ta tu được, còn chính chúng ta thì sao? Chúng ta cùng với trời người nơi thế giới phương khác không sai khác, đây là cách nói thứ nhất.

Cách nói thứ hai là nói về thân phận của chúng ta trước khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Như chúng ta từ nhân đạo mà đi thì có trời người. Có người chứng đến Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, A-la-hán, họ do niệm Phật vãng sanh, vậy là họ thuộc về Thanh Văn, là thân phận trước khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, là có hai cách nói này. Có vô số người như vậy vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. “Thọ mạng cũng đều là vô lượng”, câu này nói cái gì? Những người mới vãng sanh, thọ mạng đều vô lượng, còn người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc tu rất lâu rồi thì không cần nói nữa. Phàm Thánh Đồng Cư Độ, người hạ hạ phẩm vãng sanh đều là vô lượng thọ. Vậy người phẩm vị cao hơn, còn cần phải nói đến nữa sao? Điều này đã nói rõ người người đều là vô lượng thọ. Thọ mạng của Phật dài, thường trụ tại thế gian, chúng sanh sẽ có nơi nương tựa.

Như thế gian này của chúng ta, chúng sanh phước mỏng, Thích-ca Mâu-ni Phật trụ thế tám mươi năm. Sau khi Phật viên tịch, chúng ta không có nơi nương tựa. Tuy Phật để lại ở thế gian nhiều kinh điển như vậy, chúng ta ngày nay có cơ hội tiếp xúc được, tiếp xúc được nhiều kinh điển như vậy, nhưng vẫn là tu luyện một cách mù quáng, không biết mình nên học pháp môn nào, không biết căn tánh của chính mình. Tuy học Phật, nghi hoặc của chúng ta không đoạn, vẫn giữ cái tâm hoài nghi, đây là chướng ngại rất lớn. Phật từng nói nghi là chướng ngại lớn của Bồ-tát, huống chi là kẻ sơ học? Phật nói nghi hoặc là đại chướng ngại của Bồ-tát, dụng ý đó rất sâu. Trước kia chúng ta không hiểu rõ, bây giờ đã biết được một chút, Bồ-tát nghi điều gì? Hoài nghi Tịnh Độ, tuy gặp kinh điển này, nghe Phật nói pháp, họ không thể tiếp nhận, không tin tưởng.

Năm xưa trên hội Pháp Hoa, những người rút lui cũng rất nhiều, không thể tiếp thọ, những người không thể tiếp nhận pháp môn này lại càng nhiều hơn. Cho nên Bồ-tát phải tu hành trong vô lượng kiếp, không thể trong một đời thành tựu, đây chính là chướng ngại của họ, là sự thiệt thòi lớn của họ. Cho nên Phật tại thế thì mới có chỗ nương tựa. Thế giới của Di-đà đúng là “Thật Báo Trang Nghiêm Độ”, là đạo tràng tu hành của Phật và đại Bồ-tát, còn phàm phu chúng ta? Phía trước đã giới thiệu với quý vị rồi, là “Ngũ Thừa khế nhập báo độ”. Tổ Sư xưa nay nói Ngũ Thừa gồm Nhân Thừa, Thiên Thừa, Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ-Tát Thừa. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là bình đẳng, tất cả đều nhập vào báo độ của Di-đà, điều này không thể nghĩ bàn. Điều này những Bồ-tát bình thường không thể tin, không thể tiếp thọ, làm gì có sự việc này! Thế giới Tây Phương thật sự là vô cùng đặc biệt, khác với thế giới của chư Phật khác. Vị Giáo Chủ Vô Lượng Thọ này là vô lượng chân thật, những người vãng sanh là vô lượng thọ, cũng là vô lượng chân thật, tại sao vậy? Trong một đời họ muốn thành Phật quả cứu cánh, thành Phật rồi làm gì còn có thọ mạng, tự nhiên là vô lượng đấy mà! Tại thế giới Tây Phương Cực Lạc, Đức Di-đà thị hiện cái vô lượng của hữu lượng. Sau khi chúng ta đến nơi ấy thì thật sự biến thành cái vô lượng chân thật, lý như vậy, sự cũng như vậy.

Tiếp theo, đức Di-đà lại nêu ra một tỉ dụ rất hay:

“Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên Giác, ư bá thiên kiếp tất cộng kế giáo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Nếu chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành bậc Duyên Giác trải qua trăm ngàn kiếp cùng nhau tính đếm, nếu biết được số lượng ấy, thề không thành Chánh Giác).

“Tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh” thì không biết là bao nhiêu người! Quý vị phải biết, chúng sanh này là chúng sanh trong lục đạo chứ không phải chỉ nói chúng sanh trong nhân đạo. Trên trái đất này chỉ có hơn năm tỷ người, không nhiều so với chúng sanh trong lục đạo. Loài kiến trên trái đất này là bao nhiêu? Loài muỗi bao nhiêu? Những loài động vật là bao nhiêu? Thật không có cách gì tính được. Huống hồ còn có ngạ quỷ, địa ngục, còn có chư thiên…, cho thấy lục đạo chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới là rất nhiều. Phật giả sử những người này đều thành Duyên Giác, trí huệ thần thông của Duyên Giác so với A-la-hán còn cao hơn một bậc. “Ư bá thiên kiếp”, đây là nói về thời gian dài, không phải một ngày hai ngày, không phải mười năm, hai mươi năm hoặc là vài trăm năm, vài ngàn năm, mà là thời gian dài đến trăm ngàn kiếp. “Tất cộng kế giáo”, tức là nhóm Duyên Giác này, đây là lời giả thuyết nhóm Bích-chi-Phật (Duyên Giác) nhiều như vậy, dùng thần thông đạo lực trí huệ của họ cùng nhau để tính toán, tính toán cái gì? Tính không ra cái thọ mạng dài ngắn này. “Nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác”, thọ mạng của những người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc trừ Phật với Phật ra, Đẳng Giác Bồ-tát trở xuống đều không biết, đây chính là vô lượng chân thật.

Xin xem tiếp đoạn thứ chín:

❖ Nguyện thứ mười bảy: Được chư Phật xưng tán.

“Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới, vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc độ chi thiện giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Khi con thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi ở mười phương thế giới, nếu không cùng khen ngợi tên con, nói công đức và sự tốt lành của quốc độ con, thề không thành Chánh Giác).

Trong nguyện này, điều mà chúng ta phải chú ý là “thập phương thế giới”, đây tức là chúng ta thường hay nói là “tận hư không khắp pháp giới”, một thế giới cũng không bỏ sót. “Vô số chư Phật” là một vị Phật cũng không sót, không có một thế giới nào mà Phật không giảng Tịnh Độ Tam Kinh, không một vị Phật nào không khuyên người cầu sanh Tịnh Độ. Trừ khi duyên của bạn chưa chín muồi, giảng cho bạn, bạn không tin, không tin thì bạn sẽ phỉ báng Phật, cho nên Phật không nói. Bởi vì báng Phật thì có tội, Phật rất từ bi không để bạn phỉ báng, không để bạn tạo nghiệp nên không nói với bạn. Cái nguyện này A-di-đà Phật đã thực hiện xong, tất cả chư Phật mười phương đều xưng tán A-di-đà Phật, đều xưng tán thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nói độ chúng sanh, độ được cùng khắp, độ đến rốt ráo (cùng khắp tức là không bỏ sót một chúng sanh nào trong hư không pháp giới), Đức Di-đà độ chúng sanh, trên đến Đẳng Giác Bồ-tát, dưới đến địa ngục A-tỳ đều bình đẳng được độ, đây là phổ biến, vả lại còn rốt ráo, tức có thể khiến tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Đây là chỗ tất cả chư Phật không sánh kịp. Quý vị nên biết, chư Phật mà còn không bằng vậy thì Bồ-tát đương nhiên càng không thể sánh kịp.

Người trong thế gian này tình cảm rất nặng, một số người có duyên với Bồ-tát, không niệm Phật mà muốn niệm Bồ-tát, cảm tình đó khá nặng, xả không nổi thì phải niệm kinh này cho nhiều, phải giác ngộ. Phải biết rằng tất cả chư Phật đều không sánh bằng A-di-đà Phật thì Bồ-tát đương nhiên càng không sánh nổi. Vì sao bạn không niệm A-di-đà Phật mà cứ một mực đòi niệm Bồ-tát? Một là tình chấp quá sâu, hai là không hiểu chân tướng, cho nên mới có sự hiểu lầm này. Có người đã niệm Bồ-tát nhiều năm, bây giờ nếu không niệm Bồ-tát mà đi niệm Phật thì cảm thấy có lỗi với Bồ-tát, bị lương tâm trách móc. Còn có người thì niệm những kinh khác, thí dụ như Kinh Kim Cang, niệm Chú Lăng-nghiêm… Niệm được khá nhiều năm, bây giờ bảo họ niệm A-di-đà Phật, niệm kinh Vô Lượng Thọ thì họ không buông được, “tôi đã niệm rất nhiều năm rồi, trong lòng có nỗi áy náy không an”. Đây đều là vọng tưởng, đều là phiền não, không buông xuống được vọng tưởng phiền não.

Ngày nay chúng ta hiểu rõ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta biết có A-di-đà Phật, chúng ta đổi lại niệm Kinh Vô Lượng Thọ, đổi lại niệm A-di-đà Phật là đem sự tu hành của chúng ta hướng lên trên, thăng tiến, nâng cao đẳng cấp, đây là việc tốt. Làm gì có học sinh nào đang học lớp một tại trường qua năm sau lên lớp nhưng không muốn lên, nói: “tôi có cảm tình rất sâu với lớp một!”, làm gì có đạo lý như vậy! Tâm lý hiện nay của quý vị là như thế đó. Thi cử đã đậu rồi, phải lên lớp mà không nỡ, lẽ ra đã tốt nghiệp trường này rồi mà không nỡ rời xa, muốn ở lại trường. Bạn bảo có tệ hại không chứ? Điều này là quá đỗi sai lầm!

Cho nên phải biết, có thể niệm Kinh Vô Lượng Thọ, có thể niệm A-di-đà Phật, đây là thăng cấp, đã thăng đến tột đỉnh rồi, không còn cái gì cao hơn thế nữa. Phật mang đến lợi ích chân thật cho tất cả chúng sanh, hy vọng tất cả chúng sanh sớm thành Phật, trên đường Bồ-đề thuận buồm xuôi gió, không có chướng ngại, dùng phương pháp gì vậy? Là giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, vãng sanh đến Tịnh Độ rồi thì thuận buồm xuôi gió. Chướng ngại gì cũng đều không còn nữa.

Quý vị nghĩ, nếu A-di-đà Phật không có nguyện này, cái nguyện này nếu không có chư Phật tuyên dương, giới thiệu thì làm sao chúng ta có thể biết được Tây Phương Tịnh Độ? Chúng ta làm sao biết được A-di-đà Phật? Cho nên Thế Tôn vì chúng ta mà tiến cử, giới thiệu. Ngày nay, đọc đến nguyện này mới biết được Thế Tôn cũng là thọ nhận nguyện lực gia trì của A-di-đà Phật, bổn nguyện của A-di-đà Phật khiến tất cả chư Phật Như Lai đều tán thán, đều tiến cử, giới thiệu, ân đức này quá lớn. Ơn Phật khó báo đáp, điều này là thật.

Xin xem tiếp đoạn thứ mười:

❖ Nguyện thứ mười tám: Mười niệm tất vãng sanh.

“Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh hiệu con, hết lòng tin ưa, tất cả căn lành tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, thề không thành Chánh Giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng Chánh Pháp).

Đây là nguyện thứ mười tám, là tinh tủy của đại nguyện. Trong sách Vô Lượng Thọ Kinh Chú Giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có viết: Vào thời Tùy và Đường, các Đại Đức Nhật Bản, Đại Hàn và Trung Quốc đã làm một cuộc thống kê nói rõ trong tất cả kinh, Kinh Hoa Nghiêm là đệ nhất. Hầu như mọi người đều công nhận trong tất cả kinh mà Đức Thích-ca Mâu-ni Phật giảng trong bốn mươi chín năm thì Kinh Hoa Nghiêm là đệ nhất. Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa so sánh với Kinh Vô Lượng Thọ thì Kinh Vô Lượng Thọ là đệ nhất Kinh mà Thế Tôn giảng trong bốn mươi chín năm, tại sao? Hoa Nghiêm đến sau cùng, Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ-tát dẫn về Cực Lạc thì Hoa Nghiêm mới viên mãn. Nếu không dẫn về Cực Lạc thì Hoa Nghiêm không thể đạt đến đỉnh tối cao, không thể viên mãn. Do đây có thể biết, Hoa Nghiêm đến sau cùng là trở về Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ là tổng kết của Hoa Nghiêm. Do đây mới biết Vô Lượng Thọ là đệ nhất, Kinh Vô Lượng Thọ là tinh hoa của Kinh Hoa Nghiêm, là tinh tủy của Kinh Hoa Nghiêm.

Cho nên Cổ Đức gọi Kinh Vô Lượng Thọ là trung bản Hoa Nghiêm, tức là Kinh Hoa Nghiêm gồm tám mươi quyển kinh, quá lớn, quá dài, còn phân lượng của Kinh Vô Lượng Thọ thì nhỏ, nên là trung bản.

Trung bản đương nhiên còn có tiểu bản. Tiểu bản của Kinh Hoa Nghiêm là “Kinh Phật thuyết A-di-đà”. Kinh A-di-đà ngắn hơn Kinh Vô Lượng. Văn tự tuy có nhiều, ít khác nhau nhưng đạo lý nói bên trong không khác, hoàn toàn giống nhau. Cho nên Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A-di-đà cùng với Hoa Nghiêm có quan hệ vô cùng mật thiết. Đọc Kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy nhiều chỗ nói đến Phổ Hiền hạnh, Phổ Hiền đạo. Liên Trì Đại Sư chú giải tiểu bổn A-di-đà Kinh, gọi là Kinh A-di-đà Sớ Sao, Ngài dùng phương pháp gì để chú giải? Hầu như hoàn toàn dùng Hoa Nghiêm. Cho nên chúng ta đọc quyển Di-đà Kinh Sớ Sao thì như là đọc một bộ kinh Hoa Nghiêm vậy, phân lượng ấy cũng rất khả quan, nghĩa lý cũng hết sức sâu rộng, cho thấy tiểu bổn Di-đà Kinh đích thật là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm, là tâm kinh của Kinh Hoa Nghiêm, điều này không sai. Bộ Kinh Vô Lượng Thọ này, chúng ta đã rõ ràng tính trọng yếu của nó cùng địa vị của nó trong toàn bộ Phật pháp. Kinh Vô Lượng Thọ này có bốn mươi tám phẩm, phẩm nào quan trọng nhất? Chúng ta lại tiếp tục truy tìm, đương nhiên là phẩm thứ sáu, bốn mươi tám nguyện mà chúng tôi hiện đang giảng, bốn mươi tám nguyện là trọng tâm của Kinh Vô Lượng Thọ.

Lại hỏi trong bốn mươi tám nguyện này, nguyện nào là tối trọng yếu? Cổ Đức đã nói rõ với chúng ta, là nguyện này, nguyện thứ mười tám.

Nội dung của nguyện thứ mười tám này là gì? Là mười niệm ắt vãng sanh, đã nói rõ công đức của danh hiệu thật không thể nghĩ bàn! Cho nên nguyện này, truy đến đỉnh điểm tối cao nhất tức là câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Trước kia chúng ta thường nghe nói công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn, chúng ta cũng không biết công đức đó vì sao là không thể nghĩ bàn? Nay thì chúng ta đã hiểu rõ. Thì ra toàn bộ Phật pháp, đến cuối cùng muốn leo lên tới đỉnh thì chính là sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật”, sáu chữ này tức là tất cả Phật Pháp, niệm sáu chữ này tức là niệm tất cả Phật Pháp. Không có một bộ kinh nào rời khỏi danh hiệu này, không có một Pháp môn nào rời khỏi danh hiệu này, cũng không có một vị Phật Bồ-tát nào rời khỏi danh hiệu này. Cho nên bạn niệm một câu Nam-mô A-di-đà Phật là niệm được tất cả chư Phật Như Lai, niệm được tất cả Bồ-tát, không cần phải niệm từng vị Bồ-tát, là niệm được tất cả Kinh, bất luận là của Giáo Hạ, của Thiền Tông, của Mật Tông, toàn bộ đều niệm đến cả. Cách này tiện lợi biết chừng nào. “Một” tức là “tất cả”, “tất cả” tức là “một”. Một tức là “Nam-mô A-di-đà Phật” vậy. Cho nên đầu nhà Thanh, Quán Đảnh Đại Sư có nói: “Chúng sanh tội nghiệp cực trọng, bất luận là kinh gì, là sám gì đều không thể tiêu trừ nổi trọng tội ấy, đến sau cùng vẫn có một câu A-di-đà Phật có thể tiêu trừ nó một cách sạch sẽ rốt ráo.”

Hiện nay, người niệm Phật rất nhiều, vì sao không tiêu nổi nghiệp chướng? Quý vị nghĩ, hình như có khác biệt so với những gì trong kinh nói, kỳ thật quý vị vẫn chưa hiểu rõ, thế nào là chưa hiểu rõ? Căn bản là quý vị không có niệm Phật, quý vị chỉ niệm trên miệng: “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”, còn trong tâm không có niệm, trong tâm vẫn là thị phi nhân ngã, tham sân si mạn, cách này không được, cách này không thể cảm ứng với Phật. Vậy cần phải làm gì? Trong tâm phải có Phật, quý vị phải biết chữ niệm này, niệm là từ tâm, không phải trên miệng. Văn tự của Trung Quốc, thật sự mà nói, không có bất cứ quốc gia, dân tộc nào trên toàn thế giới có thể sánh nổi. Văn tự là ký hiệu, tổ tiên sáng tạo ra văn tự này, những ký hiệu này có ý nghĩa vô cùng thâm sâu, tràn đầy trí huệ. Bạn thử xem chữ “niệm (念)”, phần trên của chữ “niệm” là chữ kim (今), dưới là chữ tâm (心), (cái tâm hiện tại của bạn). Trong tâm hiện tại thật sự có Phật, đấy gọi là niệm Phật, không phải ở trên miệng, ở trên miệng gọi là gì? Gọi là “xưng”. “Niệm” ở tâm không phải ở miệng, trong tâm bạn nếu thật sự có Phật, đấy gọi là niệm Phật, như vậy thì có thể tiêu nghiệp chướng. Miệng có Phật còn trong tâm không có Phật thì không tiêu nổi nghiệp chướng.

Cho nên quý vị nếu muốn tiêu tai, miễn nạn, tiêu nghiệp chướng thì trong tâm thật sự phải có Phật. Có rất nhiều cách niệm Phật, trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy chúng ta: Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Trì Danh Niệm Phật, phía sau đều có chữ niệm.

1. Quán tưởng là trong tâm thường thường nghĩ tưởng đến A-di-đà Phật, tưởng đến ba mươi hai tướng, tám mươi nét đẹp của Ngài. Tưởng đến Ngài từ lúc sơ phát tâm, điều này trong Kinh Vô Lượng Thọ có nói đến, bái lão sư cầu học tu hành, chứng quả hoằng pháp lợi sanh, nghĩ tưởng đến những điều này, đừng nghĩ cái khác. Nghĩ đến thế giới Tây Phương y chánh trang nghiêm, điều này trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói đến, trong tâm bạn thật có. Ngoài A-di-đà Phật ra, ngoài cảnh giới Tây Phương ra, trong tâm không có niệm nào khác, đây gọi là nhất tâm niệm Phật. Cho dù bạn muốn y theo Kinh này niệm rất thuộc, nhưng vẫn nghĩ đến thị phi nhân ngã, vẫn nghĩ đến tham sân si mạn, cách niệm Phật này của bạn gọi là tạp tâm, đa tâm niệm Phật, loạn tâm niệm phật, cách này không có cảm ứng, cách này không thể tiêu nghiệp chướng. Cho nên phải nhất tâm niệm Phật, đây là dùng phương pháp quán tưởng.

2. Còn quán tượng niệm Phật thì sao? Bạn phải là người rất có phước báo, trong nhà bạn có Phật đường cúng dường tượng Phật rất trang nghiêm, bạn rất nhàn hạ, không làm việc (có người cúng dường cho bạn), hằng ngày bạn tu hành những gì? Là nhìn tượng Phật “quán tượng niệm Phật”, đem tướng hảo của Phật in thật sâu vào trong tâm mình đây là quán tượng niệm Phật. Tuy nhiên, nếu bạn rời khỏi Phật đường, rời khỏi tượng Phật thì công phu của bạn liền bị đoạn mất. Cho nên bạn phải có một Phật đường rất trang nghiêm, tốt nhất là bốn phía đều có tượng Phật. Vì sao thế? Vì bạn xoay hướng nào cũng thấy được tượng Phật, đây là quán tượng niệm Phật.

3. Loại thứ ba gọi là trì danh, đây là tiện lợi nhất. “Trì danh”: danh hiệu không thể bị gián đoạn, danh hiệu đánh thức chính mình, trong tâm thật có. Cổ Đức dạy chúng ta phương pháp trì danh, một câu Phật hiệu này của chúng ta từ trong tâm sanh ra, trong tâm có nó. Trong miệng niệm ra lại từ tai nghe trở vào, rồi lại trở về trong tâm, đây là người niệm Phật, đích thật là niệm Phật rồi. Không phải câu Phật hiệu này chỉ trên đầu môi, trong tâm không có, tai cũng không có. Phật hiệu như vậy thì vô dụng, đó tức là lời trào phúng của người xưa: “bạn có hét bể cổ họng cũng uổng công” cho dù một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu cũng là vô dụng. Trong tâm nhất định phải có Phật, điều này quan trọng.

Tôi khuyên các vị đồng tu sơ học phải từ đọc Kinh mà hạ thủ, trước tiên niệm Kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn biến, yêu cầu của tôi không phải là quá đáng. Một ngày niệm ba bộ, ba năm thì niệm được ba ngàn bộ, mục đích ở chỗ nào? Mục đích là tu định, niệm xong ba ngàn bộ Kinh thì tâm được định, sẽ không suy nghĩ lung tung nữa. Định vào một môn, định nơi một bộ Kinh, vả lại, niệm xong ba ngàn biến thì có thể tụng thuộc lòng kinh này, điều này rất quan trọng. Bạn phải nhớ được, nếu nhớ không được thì không có sự giúp đỡ đối với sự tu hành của bạn, thực tế kinh này có thể đọc thuộc lòng.

Có hai người tôi rất bội phục, chính tôi đây cũng không có năng lực này. Tôi ở Houston Mỹ, có một bạn đồng tu ở độ tuổi trung niên, ông làm nghề buôn bán, công việc rất bận, trong vòng năm tháng ông có thể học thuộc lòng, chính ông cũng không thể nghĩ đến. Ông nói với tôi ông niệm năm tháng thì ông có thể tụng thuộc lòng. Còn có một vị đồng tu tôi nghe nói (tôi có gặp qua ông một lần ở Đài Bắc) chỉ một tuần là học thuộc lòng. Đây có lẽ là tiền kiếp có túc căn nên mới nhanh như vậy, ông niệm rất siêng năng, ngày đêm không ngừng niệm, niệm được một tuần thì ông có thể niệm thuộc lòng. Hiện nay những người có thể tụng thuộc lòng rất nhiều.

Vậy sau ba năm tụng được ba ngàn biến rồi thì sao? Phải chú trọng cầu hiểu ý nghĩa trong kinh minh bạch rõ ràng. Đã hiểu minh bạch rõ ràng rồi thì phải làm theo, đó mới gọi là tu hành. Đem đạo lý trong kinh điển biến thành tư tưởng kiến giải của chúng ta, những lời giáo huấn trong Kinh biến thành hành vi trong cuộc sống của chúng ta. Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta, cách xử sự đối người tiếp vật nhất định làm theo lời giáo hóa trong kinh Vô Lượng Thọ, nhất định không trái ngược, đây gọi là chân tu hành. Vậy nên, tâm của bạn giống với tâm của A-di-đà Phật, nguyện của bạn cũng giống với nguyện của A-di-đà Phật. Bạn đã đem bốn mươi tám nguyện của A-di-đà Phật biến thành bổn nguyện của chính mình rồi. A-di-đà Phật phát cái nguyện này ta cũng phát cái nguyện này, đồng giải đồng hạnh với A-di-đà Phật, thật sự có thể làm được. Bạn chính là hóa thân của A-di-đà Phật, bạn còn không vãng sanh thì ai vãng sanh? Như vậy nhất định sẽ vãng sanh, đây gọi là chân niệm Phật. Cho nên niệm Phật, quý vị phải ghi nhớ, không phải có miệng mà không tâm, cách đó không thể được.

Trước kia, khi tôi mới học Phật, chúng tôi có vài người bạn đồng tham, bạn bè học Phật thường ở một nơi để biện luận. Có một bạn học nói: “Trong Phật Pháp nói Phật là vạn đức vạn năng, câu nói này tôi không tin, đây là lời tán thán, không phải là sự thật. Giống như thời xưa, chúng ta thường tán thán hoàng đế là “vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”, kỳ thật vua sống tới một trăm tuổi không nhiều. Làm gì sống đến vạn tuổi. Đó là lời dối trá, không phải là thật. Phật làm gì có được năng lực này. Vạn đức, vạn năng nhất định là nói nghe cho hay mà thôi, để tán thán thôi. Tại sao vậy? Nếu có một người đã tạo thập ác ngũ nghịch rất nặng, sẽ phải bị đọa địa ngục, Phật có năng lực khiến họ lập tức thành Phật được chăng? Nếu có năng lực này thì là vạn đức vạn năng, chúng ta có thể tin. Nếu không có năng lực này, vậy thì đó là lời ca tụng, tán thán, không phải là thật”. Lúc đó đề ra cách nhìn này, rất nhiều bạn học chúng tôi đều lặng câm không nói được lời gì, không trả lời được… Đến sau này chúng tôi đọc đến kinh này, đọc đến nguyện này mới hiểu rõ. Nếu lúc ấy đọc được bộ kinh này thì chúng tôi đã trả lời họ được rồi, quả thật mười niệm, một niệm ắt được sanh. Vừa sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì thành Phật, có thể thấy “vạn đức vạn năng” không phải là lời tán thán mà là sự thật. Vậy thì tại sao chúng sanh không thể thành Phật? Vì chúng sanh không chịu làm, nghiệp chướng của mình nặng, không thể trách Phật được. Thật tại mà nói, dù nghiệp chướng của mình có nặng hơn nhưng chịu vâng lời, chịu tin Phật thì đều có thể lập tức thành Phật. Chỉ vì không tin, hoài nghi, không chịu làm, vậy thì không còn cách gì nữa. Những người chịu làm thì một nguyện này đích thật là không thể nghĩ bàn. Nguyện này là tổng cương lĩnh của toàn bộ Phật pháp, là đỉnh cao trong toàn bộ Phật pháp. Không chỉ là Thích-ca Mâu-ni Phật mà có thể nói là mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo thì pháp này là đỉnh cao đệ nhất. Công đức của danh hiệu thật sự không thể nghĩ bàn!

Chúng ta lại xem kỹ nguyện này, trong nguyện này, một chữ cũng không được lơ là. “Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh”, đều bao gồm tất cả chúng sanh, “văn ngã danh hiệu”, “văn” là nghe nói, nghe thấy. Trong chữ “văn” này phải bao gồm Chân Tín, Thiết Nguyện thì mới gọi là “văn”. Nếu trong “văn” không có tín nguyện thì là “thính” không phải “văn”, nghe được rồi nhưng không có văn. “Chí tâm tín nhạo”, đây là bốn chữ then chốt, có thể vãng sanh hay không đều quyết định ở bốn chữ này. Chí tâm là chân tâm, chân thành đến chỗ cùng cực mới gọi là chí tâm. Tâm như thế nào mới là chân thành đến chỗ cùng cực? Khi nãy đã nói qua với quý vị: “nhất tâm”, trong tâm hãy còn một tạp niệm thì không phải là chí tâm. Trong tâm không có một tạp niệm, buông xuống tất cả thân tâm thế giới, trong tâm chỉ có A-di-đà Phật, đây gọi là chí tâm. “Tín nhạo” là chân thật tin, một tơ hào hoài nghi đều không có, đây gọi là “tín”, “nhạo” là ưa thích, ưa thích A-di-đà Phật, ưa thích thế giới Cực Lạc, thật sự muốn đi, như vậy mới được.

“Sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng”, trong đời này, một tơ một hào việc thiện, tâm thiện, hạnh thiện đều hồi hướng công đức ấy trang nghiêm Tịnh Độ, cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, “nguyện sanh ngã quốc”. Ngẫu Ích Đại Sư trong Yếu Giải nói với chúng ta: “có thể vãng sanh hay không nhất định ở nơi có tín nguyện hay không”, cũng là từ nguyện này mà nói, phẩm vị cao thấp là do ở công phu trì danh sâu hay cạn. Công phu trì danh sâu thì phẩm vị cao, công phu trì danh cạn thì phẩm vị thấp. Hãy ghi nhớ, công phu trì danh sâu cạn, không có nói trì danh nhiều hay ít, nhiều và ít khác với công phu. Trì danh phải có công phu, cái gì gọi là công phu? Lúc niệm Phật tâm địa thanh tịnh, không hoài nghi, không xen tạp là công phu. Nếu chúng ta niệm Phật mà hoài nghi, xen tạp thì không có công phu, không dễ dàng có được lợi ích. Cho nên Đại Thế Chí Bồ-tát dạy chúng ta: “Tịnh niệm tiếp nối”, cái niệm đó phải thanh tịnh mới có cảm ứng, mới tương ứng. Ở đây nói với chúng ta không ở nơi nhiều hay ít.

“Nãi chí thập niệm”, “thập niệm” thì rất ít. Mười niệm này là mười niệm lúc bình thường hay là mười niệm lúc lâm chung? Người xưa đã giải thích điều này: Nói nghiêm khắc, thực tế đây là mười niệm lúc lâm chung, tuy nhiên, mười niệm lúc bình thường cũng nói được thông.

Ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư dạy những người làm việc bận rộn, những người không có thì giờ làm công khóa sáng tối phương pháp Mười Niệm. Phương pháp này là hít đầy một hơi, một hơi này niệm Phật không kể nhiều hay ít, có người hơi dài, có người hơi ngắn, không sao cả, không kể nhiều ít: “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật, A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”. Một hơi này gọi là một niệm, thời gian này không dài, sáng thức dậy, rửa mặt súc miệng xong, có tượng Phật thì đứng trước tượng Phật chắp tay lễ bái, niệm mười hơi. Nếu không có tượng Phật thì mặt hướng về phương Tây niệm mười hơi Phật hiệu. Sáng một lần, tối một lần, tập thành thói quen, trong cả đời một lần cũng không được thiếu. Đây cũng gọi là tịnh niệm tiếp nối. Họ không niệm thiếu, mỗi ngày cứ đến giờ thì niệm, phương pháp này rất hay, trong mấy trăm năm nay rất nhiều người dùng phương pháp này mà niệm Phật thành tựu.

Tôi còn nhớ hình như là năm ngoái, ở tại đây tôi dạy cho quý vị một phương pháp thập niệm mới khác với phương pháp của Quán Đảnh Pháp Sư, so với pháp của Ngài còn đơn giản hơn. Ngài vẫn còn phải niệm mười hơi còn của tôi thì không cần, tức là mười câu “A-di-đà Phật, A-di-đà Phật…”. Niệm mười câu, không kể một hơi hay hai hơi, tức là niệm mười tiếng Phật hiệu. Thời gian tôi nghĩ chỉ cần một phút là đủ, nhưng một ngày phải niệm chín lần, lợi ích nhiều vô cùng! Sáng sớm thức dậy niệm một lần, lúc ăn cơm niệm một lần. Một ngày bạn ăn ba bữa cơm, lúc ăn cơm thường Phật tử đều niệm chú cúng dường (cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng, cúng dường tất cả chúng sanh), trên thực tế là hữu khẩu vô tâm, không bằng lão thật niệm Phật, niệm mười câu A-di-đà Phật. Chúng tôi dùng Phật hiệu thay thế cho chú cúng dường. Chúng ta niệm mười tiếng A-di-đà Phật, dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính để niệm mười câu Phật hiệu này. Niệm mười câu Phật hiệu rồi ăn cơm, khi thân tâm thanh tịnh, ăn thức ăn thì có thể hấp thụ, giúp cho tiêu hóa, lợi ích nhiều! Đây là sự thật, buổi sáng vào ca, tan ca. Buổi chiều vào ca, tan ca niệm một lần, ban đêm trước khi đi ngủ niệm một lần. Một ngày chín lần, tập thành thói quen, thời gian tuy ngắn nhưng cách không bao lâu lại niệm một lần, một ngày chín lần huân tu, hiệu quả này rất lớn.

Lúc đó tôi đề ra phương pháp này thì hai tuần sau những đồng tu ở Malaysia gọi điện thoại cho tôi, họ nói đều có hiệu quả, họ cảm ơn tôi, họ thật sự làm theo, trong hai ba tuần thì thấy được hiệu quả. Phương pháp hay vô cùng! Những người có công việc dù bận rộn hơn nữa đều có thể tu, đối với việc làm của bạn, đối với cuộc sống của bạn chỉ có giúp ích, tuyệt đối không có trở ngại.

Vậy đây đều là mười niệm, dùng phương pháp này.

Phần cuối nguyện văn nói: “Duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp”. Tội “ngũ nghịch” nặng vô cùng! Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu.

Năm tội này là cực trọng. Nhưng Phật trong kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy chúng ta: “Tội ngũ nghịch này niệm Phật mười niệm lúc lâm chung vẫn có thể vãng sanh” có thể thấy ở chỗ này, quan trọng là ở điều tiếp theo, nếu phỉ báng chánh pháp (họ vốn không tin, họ đương nhiên không tin, không muốn, không chịu niệm), không phải họ không được cứu mà vì họ không chịu tiếp nhận. Nhưng ý của Phật trong câu nói này là gì? Hàm ý rất sâu! Phần nhiều những người tạo tội nghiệp cực trọng đều rất khó hồi đầu, rất không dễ tin, điều này đều là sự thật. Cho nên chúng ta từ trong nguyện này biết được yếu quyết của sự niệm Phật, giáo nghĩa căn bản của sự vãng sanh: Niệm Phật niệm được càng nhiều càng tốt, chúng ta phải nhất tâm chuyên tu, điểm này vô cùng quan trọng. Thật sự buông xuống tất cả những thứ khác, phải chuyên tu, chuyên lễ.

Chúng ta mỗi ngày lễ Phật, chỉ lễ A-di-đà Phật. Chuyên niệm A-di-đà Phật, chuyên tưởng A-di-đà Phật, khi nãy đã nói “tâm nguyện giải hành mọi thứ đều đồng như Phật”, tức là trong Quán Kinh nói: “Thị tâm tác Phật, nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh” (tâm này làm Phật, tất cả pháp từ tâm tưởng mà sanh ra), tâm này của chúng ta thật sự là đang làm Phật. Trong thập pháp giới chúng ta chuyên vào pháp giới Phật, đây cũng tức là pháp tu học cụ thể nhất của “thị tâm tác Phật”. Tự nhiên ám hợp đạo diệu, “đạo diệu” tức là “thị tâm thị Phật” (tâm này là Phật), tự nhiên tương hợp với Ngài. Trước kia, Thiện Đạo Đại Sư nói trong bốn mươi tám nguyện, thì năm nguyện “định thành Chánh Giác (n.12), quang minh vô lượng (n.13), thọ mạng vô lượng (n.15), chư Phật xưng thán (n.17), thập niệm tất sanh (n.18)” là trí huệ chân thật, là tinh hoa của bốn mươi tám nguyện, là trung tâm của bốn mươi tám nguyện. Có thể thấy rằng năm nguyện này là hoằng thệ tinh yếu của A-di-đà Phật, bổn hoài của Di-đà. Chúng ta tại chỗ này có thể thấy được rõ ràng minh bạch, Ngài muốn tất cả chúng sanh nhất định thành Phật, không cần phải nhiều kiếp tu hành, giải quyết vấn đề này ngay trong một đời. Vì để thực hiện đại nguyện này nên mới có nguyện thù thắng là mười niệm ắt sanh này, chúng sanh niệm Phật nhất định thành Phật.

Trước đây, tôi đọc Kinh Quán Vô Lượng Thọ, thấy trong Quán Kinh có một đoạn khai thị về Tam Phước, tôi biết đó là nền tảng chân thật của việc nhập môn tu hành. Tôi rất coi trọng đoạn kinh văn đó, nhưng trong điều thứ ba “phát Bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” thì câu “thâm tín nhân quả” tôi đã suy nghĩ trong nhiều năm mà không hiểu được, không biết ý nghĩa của nó là gì? Vì sao tôi không hiểu câu nói này? Nếu câu này ở trong điều thứ nhất thì tôi không hoài nghi, nhưng nó ở trong điều thứ ba thì tôi hoài nghi. Điều thứ ba là gì? Điều thứ ba là nói về Bồ-tát, điều thứ nhất là nói về nhân thiên, điều thứ hai là nói về Tiểu Thừa. Điều thứ ba là nói về Bồ-tát, Bồ-tát còn phải tin sâu nhân quả! Nhân quả gì? Thông thường chúng ta đều tin nhân duyên quả báo, thiện có thiện báo, ác có ác báo, chúng ta đều tin, lẽ nào Bồ-tát không tin! Cho nên rốt cuộc là nhân quả gì? Tôi hoài nghi nhiều năm mới bỗng nhiên đại ngộ, mới hiểu rõ ràng là nhân quả gì? “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, tức là Pháp môn Tịnh Độ. Thật sự mà nói, tôi rất ngốc… ở ngay trên quyển Kinh này mà nhìn không ra, phải mất nhiều năm như vậy mới nhìn ra được. Câu đó không có rời khỏi kinh này, tức là trong kinh này nói đến “niệm Phật là cái nhân chân thật, thành Phật là quả chân thật” vậy. Ở triều nhà Đường, Ngài Thiện Đạo Đại Sư, đây là Tổ sư đời thứ hai của Tịnh Tông chúng ta, Ngài có câu danh ngôn: “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải” (sở dĩ Đức Như Lai xuất hiện ở thế gian chỉ vì muốn nói đến biển bổn nguyện của Phật Di-đà).

Đây là lời của Tổ sư Tịnh Tông nói, mà trong truyện ký nói Ngài là A-di-đà Phật tái lai. Trong lịch sử, hình như thân phận này đã lộ ra, A-di-đà Phật tái lai có ba người: Người thứ nhất là Thiện Đạo Đại Sư, vị thứ hai là Vĩnh Minh Diên Thọ, vị thứ ba là Phong Can Hòa Thượng ở chùa Quốc Thanh trên núi Thiên Thai, đây là thân phận đã lộ ra. Vậy nếu là A-di-đà Phật tái lai thì hai câu này là chính A-di-đà Phật nói với chúng ta một sự thật: “Tất cả chư Phật Như Lai thị hiện thân Phật vì chúng sanh mà nói pháp”. Như trong ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát, nên dùng thân Phật mà nói pháp thì hiện Phật thân mà nói pháp, nói pháp gì vậy? “Duy thuyết Di-đà bổn nguyện hải”. Vậy nói một cách khác, Kinh Vô Lượng Thọ, Tịnh Độ tam Kinh nói những gì? Là nói bốn mươi tám nguyện của A-di-đà Phật, một bộ tám mươi quyển Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh vẫn là nói về Di-đà bổn nguyện. Mở rộng ra, Thích-ca Mâu-ni Phật bốn mươi chín năm nói pháp, chúng ta ngày nay tập hợp toàn bộ thành đại tạng kinh, đó là những gì? Cũng là nói bốn mươi tám nguyện của A-di-đà Phật, càng nói càng rộng, càng nói càng vi tế. Nói vô lượng vô biên đều là nói cái này. Cho nên bốn mươi tám nguyện là tổng cương lĩnh của tất cả pháp mà chư Phật đã nói. Cái này nắm được rồi thì tất cả Phật pháp đều nắm được hết. Vậy thì nguyện thứ mười tám, mười niệm ắt sanh, là cương lĩnh của cương lĩnh, là đỉnh điểm, tột đỉnh tức là một câu Phật hiệu này.

Chúng ta tới đây mới thấu hiểu rõ ràng giá trị của Phật hiệu này. Nếu bạn không nhận biết rõ ràng, bạn không biết mặt hàng thì bạn làm sao chịu xem món đồ này là của quý chứ! Bạn làm sao chịu hết lòng tu học? Đến lúc bạn thật sự hiểu rõ, nhận thức một cách thấu triệt thì lúc đó bạn tự nhiên xem nó như trân bảo, nhất định không thể xả bỏ, nhất định không thể buông xuống, sau đó mới có thể lão thật niệm Phật. Lão thật niệm Phật không dễ, tuy vậy vẫn có một số người không hiểu rõ, như có một số cụ bà lớn tuổi, họ có thể lão thật niệm Phật, lúc lâm chung đứng mà vãng sanh, ngồi mà vãng sanh. Họ cái gì cũng không biết, đó là thiện căn của họ rất dày, nhiều đời nhiều kiếp tu được thiện căn phước đức, chúng ta làm sao có thể sánh với họ được. Trong tâm họ không có tạp niệm, từ sáng đến tối chỉ có một câu Phật hiệu. Còn chúng ta suốt ngày cứ suy nghĩ lung tung, đây là thiện căn phước đức không bằng họ.

Những người như chúng ta đây, chỉ có một phương pháp, hiểu rõ ràng minh bạch rồi, thật sự nhận thức rõ ràng rồi, hết lòng hết dạ thì mới chịu buông bỏ vọng tưởng tạp niệm, nếu không phải thế thì không chịu buông bỏ. Phàm phu có thể trong đời này khế nhập thật tướng, tức là nhà Thiền nói minh tâm kiến tánh, chúng ta thì nói khế nhập thật tướng, một đời viên mãn thành tựu, thật sự mà nói, chỉ có lão thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Ngoại trừ môn này ra, quý vị thử nghĩ xem, có biện pháp nào tẩy rửa hết thị phi nhân ngã, tham sân si mạn chăng? Nếu cảm thấy không có biện pháp thì hãy gấp rút niệm Phật, chỉ có niệm Phật là đệ nhất.

Xin xem tiếp đoạn thứ mười một:

❖ Nguyện thứ mười chín: Nghe danh phát tâm.

❖ Nguyện thứ hai mươi: Lâm chung tiếp dẫn.

“Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, phát Bồ-đề tâm, tu chư công đức, phụng hành lục Ba-la-mật, kiên cố bất thoái. Phục dĩ thiện căn hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn. Lâm thọ chung thời, ngã dữ chư Bồ-tát chúng, nghênh hiện kỳ tiền, kinh tu-du gian, tức sanh ngã sát, tác A-duy-việt-trí Bồ-tát. Bất đắc thị nguyện, bất thủ Chánh Giác”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, hành sáu Ba-la-mật kiên cố không lùi. Lại đem các căn lành hồi hướng nguyện sanh về cõi nước con, nhất tâm niệm con ngày đêm không dứt. Đến khi mạng chung, con cùng các chúng Bồ-tát hiện đến trước mặt tiếp đón, khoảnh khắc liền sanh về cõi con, thành bậc A-duy-việt-trí Bồ-tát. Nếu không được như nguyện, thề không thành Chánh Giác).

Cổ Đức vô cùng coi trọng nguyện thứ mười chín này, bởi vì trong phẩm Ba Bậc Vãng Sanh, Thế Tôn nói với chúng ta, cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, điều kiện tối cần thiết mà ba bậc thượng trung hạ phải có đầy đủ là “phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Nguyện thứ mười tám là mười nguyện ắt sanh, chính là “nhất hướng chuyên niệm”. Còn niệm này là “phát Bồ-đề tâm”, có thể thấy hai nguyện này vô cùng quan trọng, chúng ta nhất định phải nhận thức nguyện này cho rõ ràng. Đó tức là phát tâm, “Bồ-đề” là tiếng Phạn, dịch thành tiếng Trung Quốc nghĩa là “giác ngộ”, là sự giác ngộ chân thật. Thế Tôn trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói với chúng ta về ba tâm: chí thành tâm (chữ “chí thành” này là chân thành đến chỗ cùng cực), thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm tức là Bồ-đề tâm, cùng với Ngài Mã Minh Bồ-tát trong Khởi Tín Luận nói “trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm” là giống nhau. Cổ Đức giảng giải ba thứ tâm này rất nhiều. Thật sự mà nói, chúng ta rất khó lĩnh hội, không như Ngài Ngẫu Ích Đại Sư trong Di-đà Kinh Yếu Giải đã nói với chúng ta vừa rõ ràng, lại dễ hiểu. Ngài nói với chúng ta: “Tâm thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ chính là vô thượng Bồ-đề tâm”, cách nói này chúng ta dễ hiểu. Nói cách khác, hễ chúng ta một lòng một dạ mơ ước hâm mộ Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ thì tâm này là vô thượng Bồ-đề tâm. Trước Ngài Ngẫu Ích Đại Sư chưa có ai nói qua cách nói này. Đây là lối khai sáng đầu tiên của Ngài. Nhưng chúng ta càng nghĩ càng thấy có đạo lý, quả thật phù hợp với bổn nguyện độ sanh của Như Lai, quả thật đây chính là “vô thượng Bồ-đề tâm”.

Trong những kinh Đại Thừa thường nói Bồ-đề tâm nhất định bao gồm Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Cho nên có thể nói Tứ Hoằng Thệ Nguyện là sự tu học cụ thể của Bồ-đề tâm, điều này vô cùng quan trọng. Cũng tức là nói, Bồ-đề tâm thực hiện trên việc tu hành tức là Tứ Hoằng Thệ Nguyện: thứ nhất phải phát đại nguyện độ chúng sanh thành Phật đạo, sau khi tâm nguyện này sanh khởi thì có một khối sức mạnh không thể nghĩ bàn thúc đẩy bạn tinh tấn không giải đãi. Chúng ta học Phật vì sao thoái chuyển? Bởi vì học Phật rồi là muốn chính mình thành tựu, nếu sớm một ngày thành tựu thì rất tốt, trễ một ngày cũng không sao, bởi thế nên giải đãi. Giả sử bạn phát tâm là muốn cứu độ tất cả chúng sanh, cái sứ mạng này là trọng yếu, “tôi thành Phật trễ một ngày thì chúng sanh thọ khổ thêm một ngày, tôi thành Phật sớm một ngày thì họ sẽ thọ khổ ít đi một ngày”, cái sức mạnh này thì lớn. Không thể giải đãi, không thể để chúng sanh vì ta mà phải chịu thêm một ngày khổ nạn, sức mạnh này đang thúc đẩy. Cho nên họ có thể hết lòng đoạn phiền não, học Pháp môn, thành Phật đạo, quay lại độ vô lượng vô biên chúng sanh thì nguyện này mới có thể đạt được viên mãn. Như vậy thì chúng ta đã hiểu rõ tại sao Bồ-tát tu hành mà không mỏi mệt nhàm chán, họ tinh tấn như vậy chính là đạo lý này.

“Tu chư công đức”, đây là nói sau khi phát tâm, tu các đại hạnh. “Phụng hành lục Ba-la-mật”, đây là cương lĩnh tu hành của Bồ-tát. Tu “bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát-nhã”, phía trước đã nói qua những điều này. “Kiên cố bất thoái”, họ vì sao có thể kiên cố bất thoái? Vì có Bồ-đề tâm.

“Phục dĩ thiện căn hồi hướng”, họ tu tập tất cả thiện căn đều hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ. “Nguyện sanh ngã quốc, nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn”, chỗ này cần phải rõ ràng, nhất tâm niệm Phật không thể gián đoạn. Niệm Phật không phải niệm trên miệng mà là trong tâm thật có, trong tâm chúng ta đích thật có A-di-đà Phật, không những có A-di-đà Phật mà một niệm duy nhất chính là A-di-đà Phật. Nói cách khác, trong tâm ngoài A-di-đà Phật ra, không có hai niệm. Đây gọi là nhất tâm chuyên niệm. Niệm A-di-đà Phật thì phải học A-di-đà Phật, phải noi theo A-di-đà Phật, tâm A-di-đà Phật là tâm gì? A-di-đà Phật có những tâm nguyện gì? A-di-đà Phật trong sinh hoạt hằng ngày sống như thế nào? Những chỗ này chúng ta đều phải học tập tất cả. A-di-đà Phật trong sinh hoạt hằng ngày, tận tâm tận lực giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, giúp đỡ tất cả chúng sanh tín nguyện trì danh cầu sanh Tịnh Độ. Vậy chúng ta cũng xem sự việc này như đại sự trong đời của chúng ta. Pháp môn niệm Phật này hay vô cùng, thù thắng vô cùng. Tuyệt đối không làm trở ngại pháp thế gian. Bạn ở trong gia đình, niệm Phật không làm trở ngại công việc của bạn. Nếu bạn buôn bán, ở trong ngành nghề, bạn có thể khuyên từ lãnh đạo đến công nhân niệm A-di-đà Phật. Quả thật đã niệm A-di-đà Phật rồi thì công việc của bạn có thể làm được càng thoải mái, càng vui thích, càng viên mãn, không cảm thấy mệt nhọc, không cảm thấy nhàm chán, đây đều là sự thật. Cái hay và lợi ích của việc niệm Phật thật rất nhiều, không hề làm trở ngại công việc, đối với công việc chỉ có lợi ích chứ không có hại. Phàm phu nếu muốn minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, phương pháp nhất tâm chuyên niệm cầu sanh Tịnh Độ thật sự mà nói là con đường vững vàng, yên ổn nhất.

Phật ở chỗ này dạy chúng ta “nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn”, điều này quý vị biết được trong tâm có, không phải là trong miệng xưng niệm. Đây là “nhân”, phát Bồ-đề tâm là nhân chân thật của sự niệm Phật, phần sau đây là nói về “quả đức”. “Lâm thọ chung thời”, thọ mạng của con người trong đời này là có nhất định. Quả báo đời này là do tu nhân ở kiếp trước, khi quả báo của chúng ta báo hết rồi, không còn luân hồi nữa thì lúc đó A-di-đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta. Có người thọ mạng được kéo dài, tại thế gian này thọ mạng dài có tốt không? Thật sự mà nói, sống thêm một ngày là thọ tội thêm một ngày, sớm một ngày vãng sanh thì sẽ gặp Phật sớm hơn một ngày, chứng quả sớm được một ngày. Cho nên tôi nghĩ rằng, những người thật sự giác ngộ nhất định không cầu sống lâu. Tuy nhiên nếu thọ mạng kéo dài là vì họ có nhân duyên, nhân duyên đó là gì? Trong Phật pháp thường nói: “Phật không độ người vô duyên”, người này có duyên với Phật.

Thế gian này vẫn còn nhiều chúng sanh có duyên với bạn, họ có thể nghe theo lời bạn khuyên, kẻ khác khuyên họ họ không nghe. Người có duyên nhiều như vậy, cơ duyên được độ của họ đến lúc này đã chín muồi. Vậy thọ mạng của bạn đến rồi, bạn cũng không được đi, vẫn phải sống thêm vài năm để giúp đỡ họ, điều này là nên như vậy. Cho nên người niệm Phật chúng ta nếu thọ mạng được kéo dài thì nhất định là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, giúp đỡ thêm nhiều người niệm Phật vãng sanh. Nếu không phải là lý do này, thì thật sự không có lý do để sống thêm một ngày tại thế gian này.

Vào lúc lâm chung, “ngã dữ chư Bồ-tát chúng nghênh hiện kỳ tiền”. Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn bạn, vào lúc này xem công phu niệm Phật của bạn, xem duyên phần của bạn. Nếu công phu của bạn tốt, duyên lại thù thắng, thì sẽ có rất nhiều người cùng A-di-đà Phật đến tiếp dẫn. Nếu công phu niệm Phật của bạn cạn, lúc bình thường không muốn kết pháp duyên với người, vậy khi A-di-đà Phật đến tiếp dẫn, những người cùng đi sẽ không nhiều, điều này chúng ta phải hiểu rõ, phải tranh thủ. Lúc bình thường chúng ta một lòng xưng niệm, rộng kết Phật duyên, nói cách khác tức là rộng kết pháp duyên. Khi sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, những người hoan nghênh sẽ rất nhiều. Trong số những người cùng đến với Phật có rất nhiều người là người thân trong gia đình, bạn bè đồng tham trong đời quá khứ. Họ sớm đã vãng sanh rồi, nay nghe được A-di-đà Phật đến tiếp dẫn bạn, họ cùng nhau theo Phật đến hoan nghênh, tiếp dẫn bạn. Vừa gặp nhau thì túc mạng thông của bạn liền hiện tiền (phía trước chúng ta đã biết được oai thần bổn nguyện của A-di-đà Phật gia trì), bạn đều nhận ra tất cả những người này, trong đời nào, trong kiếp nào họ có quan hệ gì với ta, bạn đều nhận ra tất cả. Cho nên bạn nhất định phải biết, duy chỉ có ở lục đạo luân hồi là rất cô độc. Con người một khi chết, một khi luân hồi thì người thân trong gia đình liền chia ly ngay, muốn gặp lại nhau thì vô cùng khó khăn, hoàn toàn là cảnh giới xa lạ. Chỉ có đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì người thân bạn tốt rất nhiều, đều là người quen, một chút cũng không xa lạ, điều này là sự thật, muôn ngàn lần chính xác.

“Kinh tu-du gian tức sanh ngã sát”, đây là nói thời gian vãng sanh vô cùng nhanh chóng. Tuy thế giới Ta-bà cách xa thế giới Tây Phương Cực Lạc là mười vạn ức cõi nước Phật nhưng chỉ một niệm thì đến ngay, tốc độ rất nhanh. Sau khi đến nơi đó, câu Kinh văn tiếp theo vô cùng quan trọng, “tác A-duy-việt-trí Bồ-tát”, trong Kinh Di-đà gọi là A-bệ-bạt-trí. A-duy-việt-trí Bồ-tát là tiếng Phạn, nghĩa là Bồ-tát bất thoái chuyển, viên chứng Tam Bất Thoái. Cho nên người xưa nói đây là tâm tánh cực chí của A-di-đà Phật. Công đức tâm tánh này lớn đến điểm cùng cực.

“Trì danh chi kỳ huân” (sự hun đúc kỳ diệu của pháp trì danh), công lao của phương pháp trì danh này không thể nghĩ bàn. Cũng là hoằng nguyện của A-di-đà Phật, khiến cho mỗi người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có thể viên chứng Tam Bất Thoái. Thật sự mà nói, địa vị này là Bồ-tát Viên Giáo Thất Địa trở lên. Trong kinh Đại Thừa thường nói, ít nhất phải tu hành đầy đủ hai a-tăng-kỳ kiếp mới có thể chứng đắc Tam Bất Thoái. Như phàm phu chúng ta, vừa sanh đến đó thì được ngay, siêu vượt hai a-tăng-kỳ kiếp, điều này là không thể nghĩ bàn. Cho nên, nguyện này vô cùng quan trọng. Cổ Đức có nói: “Thập niệm tất sanh, văn danh phát tâm”, hai nguyện này là tinh tủy trong bốn mươi tám nguyện của A-di-đà. Chúng ta có thể tin được lời này.

Xin xem tiếp đoạn thứ mười hai:

❖ Nguyện thứ hai mươi mốt: Sám hối được vãng sanh.

“Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, hệ niệm ngã quốc, phát Bồ-đề tâm, kiên cố bất thoái, thực chúng đức bổn, chí tâm hồi hướng, dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh hiệu con, một lòng chuyên niệm nước con, phát tâm Bồ-đề kiên cố không thối lui, trồng các công đức, hết lòng hồi hướng sanh về Cực Lạc, đều được toại ý).

Thập phương chúng sanh đương nhiên bao gồm chúng ta. Trong “văn danh” nhất định phải bao gồm “tín, giải”. Chúng ta tin sâu, không nghi, hiểu rõ, chữ “văn” đã bao hàm ý nghĩa này. Còn “hệ niệm” tức là có nguyện, có hành, vô cùng mơ ước hâm mộ thế giới Cực Lạc, trong tâm luôn luôn nghĩ đến Phật, cái niệm này tức là hệ niệm. Chúng ta thường gọi là trong tâm luôn luôn mong nhớ. Trong tâm người thế gian việc bồn chồn lo lắng rất nhiều. Nghĩ kỹ lại thì những thứ họ hệ niệm toàn là lục đạo luân hồi, hệ niệm con cái, hệ niệm cha mẹ, hệ niệm người thân trong gia đình, hệ niệm tài sản, hệ niệm quyền lực địa vị…, toàn là lục đạo, không ra khỏi lục đạo luân hồi. Chúng ta ngày nay giác ngộ rồi, minh bạch rồi, chúng ta đổi thành hệ niệm A-di-đà Phật, buông xuống những thứ bồn chồn lo lắng của thế gian, nhất tâm hệ niệm A-di-đà Phật, vậy là chính xác.

“Thực chúng đức bổn”, “thực” là trồng trọt, đây là tỉ dụ, nghĩa là trong tâm thật có. “Đức bổn” là gì? Là chỉ cho thánh hiệu Di-đà, trong tâm thật có sáu chữ hồng danh này. “Chí tâm hồi hướng”, đây là tâm chân thành hồi hướng. “Dục sanh Cực Lạc, vô bất toại giả”, nguyện này hiển thị chúng sanh mười phương nếu muốn cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không khó, điều kiện rất dễ dàng. Quý vị nên biết điều kiện này không phải trong kinh thông thường, mà là bốn mươi tám nguyện, do A-di-đà Phật đưa ra, không phải chư Phật nói, đây là bổn nguyện của Phật. Cho nên từ chỗ này mà xem thì vãng sanh không khó.

“Nhược hữu túc ác, văn ngã danh tự, tức tự hối quá, vi đạo tác thiện, tiện trì kinh giới, nguyện sanh ngã sát, mạng chung bất phục canh tam ác đạo, tức sanh ngã quốc. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Nếu có ác nghiệp đời trước, nghe danh hiệu con liền tự sám hối tội lỗi, tu đạo làm lành, lại trì kinh giữ giới, nguyện sanh về nước con, mạng chung không lạc vào ba đường ác nữa, liền sanh về nước con. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

“Nhược hữu túc ác”, đây là giả thuyết, thật sự mà nói, đây là thật, có người phàm phu nào mà không tạo tội nghiệp chứ. Chúng ta đều biết nghiệp chướng của mình rất nặng, tội chướng rất nặng nhưng không sợ. “Văn ngã danh tự, tức tự hối quá”, đây chính là sám hối vãng sanh. “Vi đạo tác thiện, tiện trì kinh giới, nguyện sanh ngã sát” điều này rất quan trọng. Công đức sám hối rất lớn. Thật sự mà nói, toàn bộ Phật pháp, bất luận pháp môn nào, nếu luận về tu trì thì toàn là sám hối, đều tu pháp sám hối, công đức sám hối không thể nghĩ bàn. Pháp môn này là nói đới nghịêp vãng sanh, đới nghiệp vãng sanh thì phải chú trọng sám hối, dùng phương pháp gì? Niệm Phật, uy đức Phật hiệu không thể nghĩ bàn, có thể tiêu được tất cả tội chướng của chúng sanh. Tội chướng có nặng đến đâu, Phật hiệu đều có thể tiêu trừ. Từ Vân Quán Đảnh Pháp Sư nói: “Người thế gian tạo trọng tội, tất cả Kinh pháp, tất cả sám pháp đều trừ không nổi những trọng tội này, đến sau cùng niệm A-di-đà Phật thì có thể sám trừ”. Điều này nói rõ công đức của Phật hiệu vượt qua pháp sám hối của tất cả kinh giáo. Thật sự mà nói, người biết được không nhiều, cảm thấy nghiệp chướng của mình nặng, không biết niệm Phật mà đi bái Lương Hoàng Sám, bái Thủy sám, bái Đại Bi Sám, lấy những thứ này để sám hối. Tội của chính mình quá nặng, cách này không hiệu quả, sám không nổi. Không biết pháp môn niệm A-di-đà Phật hay như vậy, pháp môn này quả là hữu hiệu, hễ bạn chí tâm sám hối thì không có nghiệp chướng nào mà không diệt trừ được. Đây nghĩa là nói: không cần chờ đến hết mê hoặc cũng có thể vãng sanh, thật sự là công đức không thể nghĩ bàn! Cho nên phải biết sám hối, tự mình phải biết sám hối. Vậy sám hối có cần hình thức không? Không cần thiết.

Tôi trước kia học Phật, trước khi xuất gia, tôi theo học Chương Gia Đại Sư ba năm. Đại Sư vô cùng từ bi, dạy tôi pháp sám hối, sám hối vô cùng quan trọng. Sám hối cách nào? Về sau không làm nữa, điều này vô cùng quan trọng. Biết lỗi, sửa ngay, về sau không làm nữa. Đây là chân sám hối mà không phải là trên hình thức. Trên hình thức thì giống như hát tuồng vậy, là biểu diễn, làm cho những người chưa học Phật xem, là để khuyến dụ mọi người nên phải tu pháp sám hối, giúp người nhìn thấy pháp sám hối trang nghiêm như thế, long trọng như thế, khiến trong tâm họ khởi lên cảm động, là ý nghĩa này, tác dụng và lợi ích của nó là ở chỗ này. Chúng ta nếu muốn diệt tội, muốn tiêu tai thì tự mình dụng tâm sám hối, từ trong tâm địa mà sám hối, tức là chỗ này nói “tức tự hối quá”, chú trọng ở chữ “tự”.

“Vi đạo”, chữ “đạo” này là nói đến định huệ, chúng ta chú trọng tu định, tu huệ. Định tức là tâm thanh tịnh, tâm không bị danh lợi ngũ dục lục trần của thế gian làm cho ô nhiễm. Còn huệ là đối với tất cả pháp đều có thể thông đạt hiểu rõ mà không bị mê hoặc. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, trong Kinh Lăng-nghiêm nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp, bạn phải có khả năng phân biệt thì mới không đến nỗi học sai pháp môn.

Còn “tác thiện” là tu phước, phía trước đã nói qua với quý vị, phước rất quan trọng, chúng ta không thể lơ là. Trong Tam Quy Y: Quy y Phật, nhị túc tôn, “nhị” là hai điều, “túc” nghĩa là viên mãn. Hai thứ viên mãn: một thứ là trí huệ viên mãn, một thứ là phước báo viên mãn. Phước báo viên mãn của Phật từ đâu đến? Do tu đấy, cho nên Phật dạy chúng ta phải tu phước, tu huệ. Không thể không có phước báo, không có phước báo thì không thể độ chúng sanh, bạn muốn độ chúng sanh nhất định phải có đại phước báo. Có phước không có huệ, không thể độ chúng sanh, có huệ không có phước cũng không thể độ chúng sanh, cho nên nhất định phải phước huệ song tu thì mới có thể giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Chúng ta nhất tâm xưng danh phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ đây là huệ. Chúng ta tu Tam Phước, tu Lục Hòa, tu Lục Độ là phước, trong phước có huệ, trong huệ có phước. Cho nên nhất định phải biết “tác thiện”. Từ trong kinh chúng ta thấy A-di-đà Phật niệm niệm đều đang làm thiện, giáo hóa tất cả chúng sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh, đây là bố thí pháp. Xây dựng thế giới Tây Phương Cực Lạc để chúng ta đến bên ấy tu học là bố thí tài. Chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là hưởng phước của A-di-đà Phật, Ngài ở bên đó đã xây dựng hoàn tất và có sẵn rồi, chúng ta đến bên đó để hưởng thọ thế giới Cực Lạc mà Ngài đã tu thành trong năm kiếp. Cho nên Ngài thật sự là bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy, ba loại bố thí đều làm được viên mãn.

“Tiện trì Kinh giới”, chỗ này nói chúng ta nhất định phải đọc tụng, phải khuyên kẻ khác. Điều sau cùng trong Tam phước là “đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Ngày nay chúng ta đọc tụng Đại Thừa phải nên từ Kinh Vô Lượng Thọ mà hạ thủ. Trước tiên học thuộc lòng Kinh Vô Lượng Thọ, đến khi thông đạt bộ Kinh này rồi, tự mình nắm chắc phần vãng sanh, nắm vững rồi mới có thể học qua các kinh Đại Thừa khác, không nắm chắc vãng sanh thì chúng ta không cần xem các kinh điển Đại Thừa khác nữa. Chúng ta một lòng một dạ chuyên cầu vãng sanh, khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, gặp được A-di-đà Phật rồi, chúng ta mới thực hiện “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Gặp được A-di-đà Phật thì không sợ nữa, bảo đảm thọ mạng vô lượng, có đủ thì giờ, kinh giáo có nhiều hơn đi nữa, chúng ta có thể từ từ, yên tâm để học. Bây giờ thì không được, học nhiều thứ, học tạp e rằng việc vãng sanh sẽ có vấn đề, cho nên đây là một việc vô cùng khẩn yếu. Tôi thường hay khuyên các vị đồng tu, hai nguyện đầu của Tứ Hoằng Thệ Nguyện thì làm ngay bây giờ, còn hai nguyện sau: Học pháp môn, thành Phật đạo, đến thế giới Cực Lạc rồi mới làm.

“Mạng chung bất phục canh tam ác đạo, tức sanh ngã quốc”, đây là những người nghiệp chướng rất nặng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Sau khi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, nguyện lực của bạn rất lớn, bạn muốn đến mười phương để hóa độ chúng sanh, giống như Quán Thế Âm Bồ-tát tùy loại ứng hóa, những nghiệp chướng cực trọng trong quá khứ vậy bạn còn bị thọ báo nữa chăng? Nhất định không bị đọa tam ác đạo nữa. Câu này là tông chỉ tối quan trọng của nguyện này, câu này là quan trọng nhất. Không phải giống như Đề-bà-đạt-đa, chúng ta trong kinh Phật thấy được Đề-bà-đạt-đa tạo tội ngũ nghịch, trước phải đọa địa ngục, tội ở địa ngục mãn rồi mới là có thể thoát ra. Chúng ta niệm Phật đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không thể, tuyệt đối không thể như vậy.

Xin xem tiếp đoạn thứ mười ba:

❖ Nguyện thứ hai mươi hai: Trong nước không có người nữ.

❖ Nguyện thứ hai mươi ba: Nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam.

“Ngã tác Phật thời, quốc vô phụ nữ. Nhược hữu nữ nhân văn ngã danh tự, đắc thanh tịnh tín, phát Bồ-đề tâm, yếm hoạn nữ thân, nguyện sanh ngã quốc, mạng chung tức hóa nam tử, lai ngã sát độ”.

(Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ. Nếu có nữ nhân nào nghe danh hiệu con, thanh tịnh tin tưởng, phát tâm Bồ-đề, chán ghét nữ thân, nguyện sanh nước con, mạng chung liền hóa thân nam tử, sanh về nước con).

Thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng. Quý vị thử nghĩ, nếu có người nam, người nữ thì không bình đẳng rồi, vậy thì sẽ đánh nhau. A-di-đà Phật rất thông minh, có lẽ Ngài thấy nhiều thế giới có người nam, người nữ, ngày ngày đều cãi nhau đến bất an cho nên Ngài nghĩ thế giới Cực Lạc tất cả đều như nhau, toàn là người nam, không có người nữ. Tất cả người nữ vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là người nam, vả lại thân tướng đều như nhau, hoàn toàn giống với A-di-đà Phật. Chúng ta thấy được điều này từ trong bổn nguyện của Phật, thật sự là hy hữu đệ nhất. Mười phương thế giới của chư Phật không có việc này, nơi đây của Ngài thật sự đạt đến bình đẳng. Thiện Đạo Đại Sư nói đây là oai thần bổn nguyện của Di-đà, cho nên người nữ ở mười phương thế giới niệm Phật, lúc lâm chung vãng sanh tất cả đều là nam, thảy đều là thân tướng của Phật. Phật vừa đến tiếp dẫn, Phật quang vừa chiếu thì hóa thân liền hiện tiền, chúng ta xả bỏ nhục thân, tự mình có được hóa thân mới giống như Phật. Không phải đến thế giới Cực Lạc thì giống như một đứa trẻ dần dần lớn lên, đó là có sanh có diệt rồi. Còn thế giới Tây Phương Cực Lạc không có sanh diệt, hoàn toàn là hóa thân, thân tướng hiện ra giống như tướng trạng của A-di-đà Phật.

❖ Nguyện thứ hai mươi bốn: Liên hoa hóa sanh.

“Thập phương thế giới chư chúng sanh loại, sanh ngã quốc giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung hóa sanh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Các loại chúng sanh ở thế giới mười phương, sanh về nước con đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao thất bảo. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Tất cả quang cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc là thường trụ, là bất sanh bất diệt, vĩnh viễn không có biến hoại. Không giống như thế gian này của chúng ta thay đổi trong từng sát-na, nó không thể thường trụ, tất cả vạn vật đều đang biến hóa, cho nên gọi là vô thường.

Chúng ta xem cái giảng đài này, nó đang biến đổi rất chậm, chúng ta không dễ phát hiện được. Một giảng đài mới, nếu để đến vài ngàn, vài vạn năm thì nó tan biến mất hoặc là trong một điều kiện nào đó nó sẽ biến thành hóa thạch, sau khi biến thành hóa thạch nó vẫn còn tiếp tục biến đổi, đây gọi là vô thường, đây gọi là bất trụ.

Tất cả vạn vật ở thế giới Tây Phương là chân thường, nó không biến. Chúng ta thấy chỉ có một vật ở nơi đó có thể biến đổi, đó là những đóa hoa sen trong ao thất bảo. Trong mười phương thế giới có một người thật sự phát tâm niệm Phật, muốn cầu sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì trong ao thất bảo sẽ nở ra một đóa hoa sen. Người ấy tâm rất chân thành niệm Phật, niệm rất chuyên cần thì hoa sen này dần dần lớn lên, cho nên các hoa sen này lớn nhỏ khác nhau: có loại một do-tuần, có loại mười do-tuần, có một trăm do-tuần, có một ngàn do-tuần… Đó là công phu niệm Phật cạn sâu khác nhau, màu sắc ánh sáng của hoa khác nhau, chỉ có một thứ này hình như là có sanh có diệt. Nếu niệm được vài năm rồi không niệm nữa, đổi ý đi học Thiền, học Mật thì hoa này liền héo tàn không còn nữa. Lúc chúng ta vãng sanh, A-di-đà Phật cầm hoa sen này đến tiếp dẫn, hoa này là niệm lực của chính mình kết hợp với nguyện lực của A-di-đà Phật mà thành, cho nên mới có hiện tượng này. Còn về thế giới Tây Phương Cực Lạc, các thứ trang nghiêm là do nguyện lực của A-di-đà Phật thành tựu được, cho nên nó là chân thường, không có biến hóa. Vậy hoa sen có phải là chân thường không? Nếu tâm niệm Phật của chúng ta không thoái chuyển, tịnh niệm tương kế, khi bạn vừa vãng sanh đến bên ấy thì hoa biến thành chân thường, liên hoa hóa sanh vậy. Cho nên cổ đức nói: “Cử thể giai thị tối thắng mật mật kiết tường” (chánh báo và y báo đều tốt đẹp thù thắng).

“Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”. Từ nguyện thứ mười tám, thập niệm tất sanh, đến chỗ này là “văn danh đắc thù thắng lợi ích chi thượng thừa”, lợi ích có được ở đây là thù thắng nhất, chân thật nhất, liên hoa hóa sanh.

Xin xem tiếp đoạn thứ mười bốn:

❖ Nguyện thứ hai mươi lăm: Trời, người lễ kính.

“Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, lễ bái quy mạng. Dĩ thanh tịnh tâm tu Bồ-tát hạnh, chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con vui mừng tin ưa, lễ bái quy mạng, đem tâm thanh tịnh tu hạnh Bồ-tát, chư thiên và người đời hết lòng tôn kính).

“Nhạo” là ưa thích. Trong chữ “văn” nhất định có “tín”, có “thọ”. Phía trước đã nói qua với quý vị công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn, biểu hiện trong cuộc sống hằng ngày là “lễ bái quy mạng”. Chữ “lễ bái” này không nhất định là suốt ngày lễ Phật. Có người lấy phương pháp này để tu hành, mỗi ngày lạy Phật lạy ba ngàn lạy hoặc một ngàn lạy. Không phải yêu cầu mỗi người đều làm như vậy, “lễ bái” là trong tâm có “kính”. Ta cung kính đối với A-di-đà Phật, niệm niệm không quên, bất luận lúc nào cũng có tâm cung kính đối với Phật, đây gọi là lễ bái.

Tuổi trung niên trở lên, đặc biệt là ở trong xã hội hiện nay, việc làm của chúng ta đều là ngồi mà ít cử động, vì thế nên thiếu vận động. Người học Phật chúng ta nếu dùng thời gian này vào những vận động khác thì cũng đáng tiếc, vận động tốt nhất là lạy Phật. Khi chúng ta ngồi lâu thì nên hoạt động, vậy thì chúng ta nhiễu Phật. Nhiễu Phật là đi ra ngoài bách bộ, đi bách bộ mà trong tâm niệm Phật thì cũng như nhiễu Phật ở Niệm Phật Đường. Vẫn còn một phương pháp nữa là lạy Phật, lạy Phật là lối vận động tốt vô cùng. Tâm địa thanh tịnh chân thành, mỗi khớp xương trong thân thể đều vận động, thật là tốt vô cùng, có sự giúp đỡ rất lớn đối với sức khoẻ. Vậy thì lạy Phật bao nhiêu lạy? Điều này không có hạn định, bạn có nhiều thì giờ thì lạy nhiều, bạn không có thì giờ thì lạy ít, không sao cả. “Quy mạng” tức là nương tựa, toàn tâm toàn lực nương vào A-di-đà Phật, bộ kinh này tức là A-di-đà Phật. Một lòng y theo đạo lý, giáo huấn của kinh điển mà tu học, đây là thật sự quy mạng. “Dĩ thanh tịnh tâm”, thanh tịnh bình đẳng từ bi. “Tu Bồ-tát hạnh”, Bồ-tát hạnh tức là Tam Học, Lục Độ, tức là tu thiện, tức là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

“Chư thiên thế nhân, mạc bất trí kính”. Nếu bạn thật sự có thể tu hành như vậy, bất luận bạn đi đến đâu người ta đối với bạn đều rất cung kính, đều rất ủng hộ, đây là sự lợi ích trước mắt mà bạn có được.

❖ Nguyện thứ hai mươi sáu: Nghe danh hiệu được phước.

“Nhược văn ngã danh, thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia, chư căn vô khuyết”.

(Nếu nghe danh hiệu con, sau khi mạng chung được sanh vào nhà tôn quý, các căn đầy đủ).

Đây là người niệm Phật vẫn còn lưu luyến thế gian này, vẫn không xả được để vãng sanh. Vậy thì niệm Phật có lợi ích chăng? Có lợi ích, đời sau sinh vào gia đình tôn quý, vừa sinh ra là hưởng phước, rất có phước báo, cũng khỏe mạnh sống lâu. Đây là quả báo do niệm Phật trong đời quá khứ, tiếc rằng họ không có phát tâm, không có phát nguyện vãng sanh, nên được quả báo này.

❖ Nguyện thứ hai mươi bảy: Tu hạnh thù thắng.

“Thường tu thù thắng phạm hạnh”.

(Thường tu phạm hạnh thù thắng).

“Phạm hạnh” tức là hạnh thanh tịnh. Bởi vì họ thiện căn thâm hậu, họ còn có thể tiếp tục học Phật tu hành. Đây cũng là oai thần bổn nguyện của A-di-đà Phật gia trì, họ không đến nỗi mê mất chính mình, lúc còn ở nhân gian này vẫn còn có thể tiếp tục tu hành. Có lẽ chúng ta thuộc loại này, trong đời quá khứ niệm Phật nhưng không xả bỏ được thế gian này cho nên chưa được vãng sanh, kiếp này lại gặp được Phật pháp, thật rất giống với cảnh giới hiện nay của chúng ta.

Trong chương này, cả ba nguyện đều là nói rõ công đức của văn danh (nghe danh hiệu Phật A-di-đà). Căn cơ của chúng sanh không như nhau, tuy nghe danh nhưng tâm cầu nguyện vãng sanh chưa phát. Miệng thì nói vãng sanh mà trong tâm thì không xả được thế gian này, thân bằng quyến thuộc, lo lắng bồn chồn không buông xuống được thì cái tín nguyện này không sâu, trì niệm cũng không chuyên, cho nên đối với đại nguyện tiếp dẫn của Di-đà vẫn còn có một khoảng cách. Do đó họ chưa thể vãng sanh, nhưng họ có được phước báo nhân thiên. Ở đây cho thấy hễ nghe được danh hiệu Di-đà thì bất luận vãng sanh hay không đều được lợi ích. Vì thế chúng ta cần phải hoằng dương danh hiệu này, cũng tức là tuyên truyền, giới thiệu cho tất cả chúng sanh, lợi ích này rất lớn. Chúng ta cần phải làm, bất kể họ có tin hay không, chúng ta đều luôn luôn giữ tâm nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh, khiến họ có cơ hội nghe được danh hiệu của A-di-đà Phật. Nếu có được cơ hội đem kinh điển này giới thiệu cho họ thì công đức này lại càng lớn.

Sau đây là đoạn thứ mười lăm. Từ đoạn thứ mười lăm đến đoạn thứ mười tám, cũng tức là từ nguyện hai mươi tám đến nguyện ba mươi tám, Phật thuyết minh tình trạng sinh hoạt tu học của những người sau khi vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Điều này có quan hệ rất mật thiết đối với chúng ta, bởi vì chúng ta không bao lâu nữa sẽ đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, cho nên trước hết nên biết rõ, [điều này] có sự giúp đỡ rất lớn đối với lòng tin của chúng ta.

❖ Nguyện thứ hai mươi tám: Nước không có danh từ “bất thiện”.

“Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh”.

(Khi con thành Phật, nước con không có danh từ bất thiện).

Chúng ta thấy hiện nay thế gian này việc bất thiện rất nhiều. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không những không có việc bất thiện mà cái tên bất thiện cũng không nghe đến. Ví dụ như: tham sân si mạn…, chúng ta ở đây thật có việc này, còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, cái gì gọi là tham sân si mạn? Không có ai nghe qua. Bạn mới biết được thế giới đó tốt đẹp như thế nào.

❖ Nguyện thứ hai mươi chín: Trụ Chánh Định Tụ.

“Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả giai đồng nhất tâm trụ ư Định Tụ”.

(Tất cả chúng sanh sanh vào nước con đều nhất tâm trụ vào Chánh Định Tụ).

Câu này thật không thể nghĩ bàn. Thế gian này tại sao lại tạp loạn như vậy? Vì tất cả chúng sanh tâm không đồng, tưởng không đồng, niệm không đồng, cho nên rất phức tạp. Người xem tướng cũng thường nói rằng: “nhân tâm bất đồng, các như kỳ hiện” (lòng người không như nhau nên mỗi người có diện mạo riêng biệt). Tại sao mỗi người chúng ta đều khác nhau? Vì trong tâm chúng ta nghĩ, tư tưởng, kiến giải khác nhau cho nên diện mạo khác nhau. Còn tướng mạo mỗi người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc là giống nhau. Họ vì sao giống nhau? Vì tâm của họ như nhau, tâm gì vậy? Tâm niệm A-di-đà Phật, người người niệm A-di-đà Phật, trong tâm mọi người là A-di-đà Phật, cho nên biến thành thế giới của A-di-đà Phật. Những người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc có cùng diện mạo với A-di-đà Phật, ai ai cũng đều là A-di-đà Phật, “giai đồng nhất tâm”, điều này quá quan trọng. “Trụ ư Định Tụ”, chữ “Định Tụ” này là Chánh Định Tụ. Trong Phật pháp có nói đến Tam Tụ, Tam Tụ này bao gồm tất cả chúng sanh. Chánh Định Tụ nghĩa là y theo phương pháp này tu hành nhất định thành Phật, phương pháp ấy chính xác, không sai. Loại thứ hai là Tà Định Tụ, bạn y theo phương pháp này tu, bất luận tinh cần đến đâu cũng nhất định không thành tựu thì gọi là Tà Định Tụ. Còn loại thứ ba gọi là Bất Định Tụ, như căn tánh của chúng ta đây gọi là Bất Định Tụ. Nếu gặp được Chánh Định Tụ thì chúng ta thành tựu, còn gặp được Tà Định Tụ thì chúng ta không thành tựu, cho nên chúng ta thuộc về bất định tánh.

❖ Nguyện thứ ba mươi: Vui như Tỳ-kheo dứt sạch các lậu.

“Vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu Tận Tỳ-kheo”.

(Vĩnh viễn không còn phiền não, tâm được mát mẻ, hưởng thọ an lạc như Tỳ-kheo Lậu Tận).

“Nhiệt não” tức là phiền não, ở thế giới Tây Phương Cực Lạc vĩnh viễn không có phiền não, tâm địa đều thanh lương tự tại. “Tâm đắc thanh lương”, họ đối với tất cả pháp không phân biệt, không chấp trước thì tâm địa của họ được thanh lương tự tại, chúng ta nên học tập họ. Sống trong thế gian này chúng ta phải biết đời người rất ngắn tạm, mấy mươi năm nóng lạnh, vừa khảy ngón tay là qua rồi, chúng ta chung sống với người có gì mà phải khó khăn, nên nghĩ thông một chút, đừng nên xem nó là thật, đừng nên so đo mà tự chuốc khổ vào thân, một cái khảy ngón tay là qua mất rồi. Cái mà chúng ta phải tranh thủ đó là thế giới Tây Phương Cực Lạc vĩnh hằng, chân thường, đây gọi là thật sự thông minh, thật sự giác ngộ. Ở thế giới Ta-bà này, chúng ta giống như khách qua đường, ở quán trọ này có tốt, xấu, hà tất phải so đo chứ, ngày mai phải lên đường rồi, không thể xem nó là nhà mình được. Nhà mình ở Tây Phương, thế giới Tây Phương Cực Lạc mới là căn nhà cố hữu của mình, nơi này không phải, là nhà ở tạm thời, tốt cũng được, không tốt cũng được. Kẻ kia đối với ta tốt thì rất tốt, đối với ta không tốt cũng rất tốt, thì vô sự rồi. Tâm địa rất thanh lương, rất tự tại thì trải qua tháng ngày rất vui vẻ, một chút phiền não cũng không có. Đây là tâm thật sự được thanh lương.

“Lậu Tận Tỳ-kheo” là A-la-hán. Chỗ này là tỉ dụ, trên thực tế là siêu việt A-la-hán. A-la-hán tuy là phiền não đã đoạn hết (Lậu Tận), nhưng trí huệ không viên mãn. Người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc không những đã đoạn hết phiền não mà trí huệ đã viên mãn, A-la-hán tuyệt đối không thể sánh kịp.

❖ Nguyện thứ ba mươi mốt: Không tham chấp thân.

“Nhược khởi tưởng niệm tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Nếu còn khởi tưởng niệm tham chấp thân, thề không thành Chánh Giác).

Có một số người hoài nghi rằng đến thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi có còn ngã chấp, pháp chấp không? Có còn nghĩ đến bản thân nữa không? Chỗ này nói là không có, nhất định là không có. Có bổn nguyện A-di-đà gia trì khiến bạn sẽ không thoái chuyển nữa. Nếu lại còn tham luyến thân tướng này nữa thì đó là chấp trước, là thoái chuyển, nhất định sẽ không thoái chuyển.

Sau đây là đoạn thứ mười sáu:

❖ Nguyện thứ ba mươi hai: Được Na-la-diên thân.

“Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả, thiện căn vô lượng, giai đắc Kim Cang Na-la-diên thân, kiên cố chi lực”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, được vô lượng căn lành, đều được thân kim cang bất hoại, có sức vững chắc).

“Thiện căn vô lượng” là nhân, bởi vì mỗi người đều là niệm Phật, tu thiện, tích đức để đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu e thiện căn mà bạn tu tập đó không đủ, A-di-đà Phật có oai thần gia trì bạn, khiến cho tiểu thiện căn đó biến thành đại thiện căn, học các pháp môn khác không thể có được điều này, không có Phật giúp.

Cho nên không sợ mình không có thiện căn, không có phước đức. Chỉ cần thật sự nỗ lực tu học, đây là nhân. Còn quả báo? Là được thân kim cang bất hoại. Chỗ này đặc biệt chỉ ra “kim cang Na-la-diên thân”. Na-la-diên, trong kinh điển không có giải thích ý nghĩa, chỉ nói rõ đây là một danh tự Kim Cang mà thôi. Có lẽ trong tất cả loại Kim Cang, thân thể của họ là kiên cố nhất, cường tráng nhất. Đây là một vị thần Kim Cang dũng mãnh nhất. Danh tự của vị Kim Cang này, nếu chúng ta từ một góc độ khác để nhìn thì ý nghĩa của nó khác nhau. Trong Mật Tông có lễ bái thần Kim Cang. Thần Kim Cang trong Mật Tông rất nhiều, có rất nhiều Minh Vương, đều hiện ra tướng oai vũ, dũng mãnh khiến người thường nhìn đến đều khiếp đảm. Họ hiện những tướng đó không giống như tướng mạo từ bi hiền hòa của những vị Bồ-tát thông thường. Cho nên ở chỗ này, Kim Cang Na-la-diên tượng trưng cho sự thành tựu đại viên mãn của Mật Tông, ở đây có Mật Pháp. Nói cách khác, tức là Kim Cang Tát Đỏa, tức là Kim Cang Thủ Bồ-tát. Kim Cang Tát Đỏa tức là hóa thân của Phổ Hiền Bồ-tát, cũng tức là nói Phổ Hiền Bồ-tát là căn bản trong Mật Giáo. Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tức là sự thành tựu đại viên mãn trong Mật Tông. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này rồi thì lão thật mà niệm Phật, không cần thiết phải đi học Mật, đây tức là Mật Tông rồi, Mật Pháp chí cao vô thượng, ý nghĩa này rất hay.

❖ Nguyện thứ ba mươi ba: Được quang minh trí huệ biện tài.

“Thân đảnh giai hữu quang minh chiếu diệu, thành tựu nhất thiết trí huệ, hoạch đắc vô biên biện tài”.

(Thân và đảnh đều có hào quang chiếu sáng, thành tựu hết thảy trí huệ, được biện tài không cùng tận).

Vậy mới có năng lực hóa độ chúng sanh. Nói pháp cần phải có biện tài. “Thân”, thân có quang minh, “đảnh” tức là viên quang. Chúng ta vẽ tượng Phật thì vẽ một vòng ánh sáng, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, trên đảnh Phật có ánh sáng, thân Phật phóng ánh sáng, mỗi người vãng sanh cũng giống như Phật, trên đảnh đều có ánh sáng, trên thân cũng phóng quang, có điều ánh sáng so với ánh sáng của Phật kém hơn một chút, đây là “quang tuyên diệu pháp”. Ánh sáng cũng là biểu pháp, “pháp” tức là ánh sáng, ánh sáng tức là pháp, không lìa ánh sáng mà nói pháp này, cho nên thành tựu tất cả trí huệ, cái trí huệ viên mãn của tất cả chủng trí. Trí huệ thành tựu rồi thì đương nhiên có được biện tài. Sự vô ngại biện tài của Bồ-tát so với quả địa của Như Lai tương tự nhau.

❖ Nguyện thứ ba mươi bốn: Khéo nói pháp bí yếu.

“Thiện đàm chư pháp bí yếu, thuyết kinh hành đạo, ngữ như chung thanh. Nhược bất nhĩ giả bất thủ Chánh Giác”.

(Khéo nói các pháp bí yếu, thuyết kinh hành đạo, tiếng như chuông vang. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Tất cả pháp thế xuất thế gian không có một pháp nào không thông đạt. “Thiện đàm” là nói khế cơ, khế lý. “Thuyết kinh hành đạo”, “thuyết kinh” là ngôn giáo, “hành đạo” là thân giáo, Ngài đích thật làm gương mẫu cho chúng ta xem, làm gương mẫu gì? Ở trong ngành nghề nào thì làm gương mẫu của ngành nghề đó. Quý vị xem năm mươi ba tham vấn của Thiện Tài Đồng Tử trong Kinh Hoa Nghiêm. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều là tu hạnh Phổ Hiền, họ gồm cả nam nữ già trẻ, các ngành các nghề khác nhau. Họ là Bồ-tát đấy. Chúng ta từ chỗ này mà học tập. Cách hành đạo này bao quát vô cùng rộng lớn. Đem trí huệ của bạn, lòng từ bi của bạn, sự tu trì của bạn ứng dụng vào trong sinh hoạt, dùng vào trong sự nghiệp của bạn. Sinh hoạt của bạn, sự nghiệp của bạn là phổ độ chúng sanh. Cho nên trong bất cứ ngành nghề nào đều có Bồ-tát, bất cứ nơi chốn nào đều là đạo tràng hóa độ chúng sanh của Bồ-tát, không nhất định là tự viện. Nếu xem tự viện là đạo tràng duy nhất của Bồ-tát thì bạn đã nhìn sai rồi. Bồ-tát ở trong gia đình, gia đình tức là đạo tràng, Bồ-tát ở trong trường học, trường học tức là đạo tràng. Nơi nơi chỗ chỗ đều là đạo tràng, chỗ phổ độ chúng sanh.

Đoạn thứ mười bảy:

❖ Nguyện thứ ba mươi lăm: Nhất Sanh Bổ Xứ.

“Ngã tác Phật thời, sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, cứu cánh tất chí Nhất Sanh Bổ Xứ”.

(Khi con thành Phật, tất cả chúng sanh sanh vào nước con quyết chắc rốt ráo đến bậc Nhất Sanh Bổ Xứ).

Nguyện này cũng bảo đảm rõ ràng cho chúng ta. Phía trước Phật có nguyện “tất thành Chánh Giác” (người vãng sanh đến thế giới Cực Lạc tất thành Chánh Giác, nhất định chứng đắc Vô Thượng Bồ-đề), chỗ này nói rõ trong một đời nhất định chứng đắc địa vị Bồ-tát “Nhất Sanh Bổ Xứ”. “Nhất Sanh Bổ Xứ” tức là tất thành Chánh Giác. Đây là nói về thứ hạng. Đẳng Giác Bồ-tát là Hậu Bổ Phật. Mọi người của thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là Bồ-tát, họ là viên giải, viên tu, khác với cách tu học của chúng ta. Các Ngài là “nhất tu, nhất thiết tu, nhất thiết tu, nhất tu”. Họ là “viên dung”. Cho nên “sanh giai Bất Thoái, đốn siêu giai thứ” (mọi người đều Bất Thoái, đốn siêu thứ bậc). Bồ-tát ở thế giới phương khác tu hành thì có vị thứ, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, từng đẳng cấp một. Giống như đi học, lớp một, lớp hai, lớp ba dần dần đi lên. Còn ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không phải vậy, họ nhất tu, nhất thiết tu. Tỉ như nói tiểu học, trong lớp một có khóa trình của lớp hai, cũng có khóa trình của lớp trung học, cũng có khóa trình của đại học, cũng có khóa trình của nghiên cứu sinh, khóa trình của lớp tiến sĩ… Họ nhất tu, nhất thiết tu, cách này thì nhanh, bất luận ở thứ hạng nào thảy đều viên giải, viên hành, phương pháp này cực kỳ tuyệt diệu. Cho nên họ viên chứng Bổ Xứ, đều là chứng đắc viên mãn, “cứu cánh tất chí”. Lối nói này vô cùng khẳng định, khiến chúng ta một tơ hào nghi hoặc cũng không có. Tức là nói sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, bạn nhất định thành Phật rất nhanh.

❖ Nguyện thứ ba mươi sáu: Giáo hóa tùy ý.

“Trừ kỳ bổn nguyện vị chúng sanh cố, phi hoằng thệ khải, giáo hóa nhất thiết hữu tình, giai phát tín tâm, tu Bồ-đề hạnh, hành Phổ Hiền đạo”.

(Ngoại trừ những người phát nguyện vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu tình đều phát tín tâm, tu hạnh Bồ-đề, hành nguyện Phổ Hiền).

Ở chỗ này chúng ta lại thấy Phổ Hiền đạo, chúng ta phải coi trọng, từ những chỗ này hiểu rõ được thế giới Tây Phương Cực Lạc là pháp giới của Phổ Hiền Bồ-tát. Những người vãng sanh thảy đều tu hạnh Phổ Hiền, như trong phần trước của Kinh này nói: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”.

Nguyện lực của mỗi Bồ-tát khác nhau, có người hy vọng mình mau thành Phật, sau khi thành Phật mới độ chúng sanh, có người cảm thấy chúng sanh quá khổ, “ta chưa thành Phật, ta phải độ chúng sanh trước”. Điều này rất hiếm có. Nguyện này cũng thật đáng quý. Tuy nhiên quý vị nên biết, bạn độ chúng sanh phải có bản lãnh, không có bản lãnh thì nguyện của bạn là nguyện suông.

Tỉ như thấy một người rớt xuống nước, sắp chết đuối, mình phải nhảy xuống cứu họ, nhưng chính mình không biết bơi, vừa nhảy xuống thì uổng mất một mạng người. Muốn cứu kẻ chết chìm kia, trước hết tôi phải học thành một tay bơi có bản lãnh, sau khi học xong rồi tôi mới đi cứu người. Vậy thì được. Hiện nay có rất nhiều người phát tâm tôi rất bội phục, nhưng phiền não của họ vẫn chưa đoạn, họ nhất định sẽ rơi vào luân hồi. Họ nói kiếp sau không muốn vãng sanh, kiếp sau vẫn muốn làm Pháp sư, vẫn muốn giảng kinh thuyết pháp. Kiếp sau chưa chắc được thân người, vừa mới chuyển thế thì mê hoặc điên đảo rồi, kiếp trước đều quên hết sạch. Những hạng người này có nhiệt tâm nhưng trí huệ không đủ. Nhất định phải đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, đây là tuyệt đối chính xác. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc rồi, có người hỏi: “Vậy phải chờ bao lâu chúng ta mới có thể rời thế giới Tây Phương Cực Lạc để đi hóa độ chúng sanh?” Chúng ta xem trong Di-đà bổn nguyện, xem trong Kinh Vô Lượng Thọ, Tịnh Độ tam Kinh, đều không có nói phải hạn định ở thế giới Tây Phương Cực Lạc bao lâu. Không có nói thì là dễ làm rồi, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, gặp được A-di-đà Phật, lạy A-di-đà Phật ba lạy rồi nói: “Con muốn đi cứu chúng sanh được chăng?” A-di-đà Phật gật đầu nói: “Được, con có cái nguyện này thì được”. Phật sẽ gia trì bạn, bạn sẽ có bản lãnh, về lại thế giới Ta-bà, bạn sẽ không bị thoái chuyển, cũng không bị mê hoặc. Đây mới là người thông minh, mới là phương pháp chính xác. So với việc luân hồi chuyển thế thì thời gian ngắn hơn nhiều. Thấy được A-di-đà Phật thì có thể lập tức trở về.

“Phi hoằng thệ khải”, chữ “phi” này là tỉ dụ, bạn có hoằng nguyện trước độ chúng sanh, sau thành Phật đạo. Tuy nhiên, bạn phải có bản lãnh, A-di-đà Phật gia trì cho bạn, giáo hóa tất cả hữu tình chúng sanh, đều phát tín tâm, đây là giáo hóa tùy ý. Giáo hóa chúng sanh muốn thật sự thu được hiệu quả, việc này không thể không nghiên cứu, giáo hóa như thế nào mới thật sự thu được hiệu quả? Nhất định phải khiến chúng sanh thật sự có tín tâm đối với Tịnh Độ, đối với Di-đà, phải thật sự chịu tu hành, chịu phát nguyện, chịu cầu sanh Tịnh Độ. Bồ-tát đi giới thiệu, giảng kinh, nói pháp là hoằng nguyện của riêng Bồ-tát. A-di-đà Phật, thật sự mà nói, Phật cũng gia trì người nghe, nếu Phật không gia trì thì bạn nghe kinh làm sao sinh được tâm hoan hỷ? Quý vị nhất định phải biết bạn nghe pháp môn này rất hoan hỷ, rất bằng lòng, không phải tôi giảng hay, không liên quan đến những gì tôi giảng, mà là oai thần bổn nguyện của Di-đà đang gia trì cho bạn. Cho nên bạn nghe được rất minh bạch, so với tôi giảng còn hiểu rõ hơn, tôi còn chưa giảng rõ thì bạn đã nghe rõ ràng rồi. Đây là Phật lực gia trì, cho nên bạn có thể sanh được tâm hoan hỷ, thật một chút cũng không sai. Cho nên những người nghe kinh này được viên mãn, họ chuyên niệm lục độ, thập độ, đang tu Bồ-đề hạnh, hành đạo Phổ Hiền thì đó là đang tu Mười Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ-tát, đây là sự tu hành đạt đến khoa mục tối cao.

“Tuy sanh tha phương thế giới, vĩnh ly ác thú”.

(Tuy sanh vào thế giới khác, hằng lìa ác đạo).

Tức là bất luận bạn đến thế giới nào để thuyết pháp, hoàn cảnh của thế giới ấy dù có tệ hơn, bạn cũng không bị đọa lạc. Đây đều là Phật phù hộ cho bạn, A-di-đà Phật gia trì, chiếu cố bạn, bạn sẽ không bị đọa lạc.

“Hoặc nhạo thuyết pháp, hoặc nhạo thính pháp, hoặc hiện thần túc, tùy ý tu tập, vô bất viên mãn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Hoặc thích thuyết pháp, nghe pháp, hay hiện thần túc, tùy ý tu tập, thảy đều viên mãn. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Đây là nêu ra vài thí dụ. Bồ-tát từ thế giới Cực Lạc tái lai thị hiện hoặc là thích giảng kinh thuyết pháp, hoặc là thích nghe pháp. Nghe pháp cũng là Bồ-tát, làm ảnh hưởng mọi người. Người này ở trong xã hội nhất định có thân phận, rất có địa vị, rất có đạo đức, được mọi người kính ngưỡng. Mỗi buổi Pháp sư thuyết pháp, họ đều đến nghe, khiến cho kẻ khác nhìn thấy Pháp sư này giảng có lẽ cũng hay, người kia đều đến nghe mỗi ngày, nghe rất chú tâm…, làm ảnh hưởng người khác. Những ảnh hưởng chúng này đều là Bồ-tát hóa thân, điều này không phải dễ.

Tôi trước đây giảng kinh tại Đài Bắc, thầy của tôi là lão cư sĩ Chu Bang Đạo, ông là thầy tại gia của tôi. Trong thời kỳ kháng chiến, tôi học ở Quý Châu, ông là hiệu trưởng của tôi. Sau khi đến Đài Loan tôi học Phật, thường giảng kinh ở bên ngoài. Ông mỗi ngày đều đến nghe, lại còn ngồi ở hàng đầu. Mỗi lần nghe, ông còn viết bút ký, có vẻ rất dụng công. Chúng tôi nhìn thấy thật rất tôn kính ông, còn thầy Lý thì sao? Thường nêu ông lên như một tấm gương, nói: “Lão tiên sinh này có đạo đức, có học vấn, cũng đã làm không ít sự nghiệp. Tuổi tác đã lớn như vậy, nghe kinh vẫn còn hết lòng như thế”. Không kể người nào giảng kinh, người sơ học đến giảng kinh ông cũng hết lòng nghe, ông cũng ghi chép lại, không biết ông ghi những gì. Mãi cho đến năm chín mươi mấy tuổi mới vãng sanh, thật hiếm có! Đây là làm ảnh hưởng mọi người, ưa thích nghe pháp.

“Hoặc hiện thần túc”, chữ “thần túc” này tức là thị hiện thần thông biến hiện tự tại. Tuy nhiên thảy đều là vì làm ảnh hưởng tiếp dẫn tất cả chúng sanh tin sâu Tịnh Độ, phát nguyện cầu sanh, vậy thì đúng. Nếu thị hiện thần thông, bảo bạn đừng niệm A-di-đà Phật, thì tuyệt đối không phải, đó là ma thị hiện. Nếu Bồ-tát ở thế giới Tây Phương đến thị hiện, nhất định là khuyên bạn tin sâu không nghi pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu sanh. Điều này vừa nhìn, tương ưng với chỗ nói trong kinh. Chúng ta biết được đây là Bồ-tát Tây Phương tái lai. “Tùy ý tu tập”, tất cả đều vì độ chúng sanh, đều vì thành tựu tất cả chúng sanh, tiếp nhận sự dạy bảo của A-di-đà Phật và chư Phật, đều ưa thích phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

Đoạn thứ mười tám:

❖ Nguyện thứ ba mươi bảy: Y, thực tự đến.

“Ngã tác Phật thời, sanh ngã quốc giả, sở tu ẩm thực, y phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ý tức chí, vô bất mãn nguyện”.

(Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, nếu muốn ăn uống, y phục, các loại cúng dường, tùy ý liền đến, đều được mãn nguyện).

Nguyện này đối với lục đạo chúng sanh của mười phương thế giới có quan hệ rất lớn. Thiên đạo có phước báo lớn, cuộc sống vật chất không cần bận tâm. Tuy nhiên từ cõi người trở xuống, cuộc sống đều rất gian nan, mưu sinh không dễ. Cổ đức thường nói: “Pháp luân vị chuyển thực luân tiên” (chuyển bánh xe ẩm thực trước rồi mới chuyển bánh xe Pháp được), chúng ta trước hết phải “ăn cho no, mặc cho ấm” mới có thể nói đến học Phật. Nếu ba bữa cơm đều ăn không no thì còn tâm tư nào mà học Phật chứ! Có thể thấy chúng ta rất xem nặng đời sống vật chất. Phật ở chỗ này vì chúng ta mà giới thiệu cuộc sống vật chất ở thế giới Tây Phương, “tùy ý tức chí”, không cần bận tâm, không cần tạo tác. “Y thực”, nhất là việc ăn uống, những người vừa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tập khí này vẫn chưa quên, đến giờ ăn cứ nghĩ: “Sao lâu vậy mà không ăn cơm?” Kỳ thật, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không cần ăn cơm nữa. Cái niệm ấy vừa khởi thì cơm nước đã bày ngay trước mặt, không cần phải làm mà có đến cả trăm thứ thức ăn đồ uống. Thức ăn thì giống như hoàng đế trước kia ăn cơm, phải có một trăm món ăn. Trăm món ăn đều hiện tiền, vừa hiện tiền thì liền nghĩ ta bây giờ không còn là phàm phu nữa, không cần nữa. Nhìn thấy thì đánh thức mình, không cần nữa, không cần thì không có nữa, cũng không cần thu dọn, rửa chén dĩa phiền phức, tùy niệm hóa sanh. Bạn mới biết sự tốt đẹp của thế giới Tây Phương thật sự là không thể nghĩ bàn. Cung điện nơi cư trú sạch sẽ, một hạt bụi cũng không có, thảnh thơi sảng khoái, một chút rác cũng không có. Khi có khách đến thăm thì chỗ ngồi lập tức hiện ra, khách đi rồi thì không còn nữa, không cần thu dọn. “Tùy tâm sở dục” (tùy tâm mong muốn), tất cả đều là biến hóa ra. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mọi người đều có thần thông này, năng lực thần thông này là nguyện lực gia trì của A-di-đà Phật.

❖ Nguyện thứ ba mươi tám: Ứng niệm thọ cúng.

“Thập phương chư Phật, ứng niệm thọ kỳ cúng dường. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Mười phương chư Phật ứng niệm thọ nhận các thứ cúng dường của người ấy. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Việc cúng Phật đối với người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc là việc trọng yếu trong sinh hoạt hằng ngày. Người ở thế giới Tây Phương không cần phải đi làm, mọi thứ sinh hoạt vô cùng tự tại. Vàng bạc tiền của muốn có bao nhiêu thì có bấy nhiêu, đều hiện ra không cùng tận, cho nên đời sống vật chất phong phú, điều này thì mười phương thế giới không có. Bởi vì mọi thứ đều là tùy niệm mà biến hóa nên chẳng cần thứ gì cả, muốn thứ nào lập tức có thứ đó, không cần bày ra chất đống to ở đó cho phiền phức, mà là tùy niệm tùy tâm mà được. Việc cúng Phật cũng như vậy, trong tâm muốn cúng vị Phật nào thì Phật cảm ứng đạo giao, thì Ngài tiếp nhận sự cúng dường của bạn, cúng Phật là tu đại phước báo. Cúng Phật thì nhất định được nghe pháp, nghe pháp thì thành tựu đại trí huệ. Ở đây chúng ta thấy được từng chi tiết nhỏ về tình trạng sinh hoạt của những người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, từ những điều nhỏ này thì bạn thấy sinh hoạt của họ tự tại biết bao! Mỗi ngày đều là nghe pháp, cúng Phật, đi hóa độ chúng sanh có duyên. Phạm vi hoạt động là tận hư không khắp pháp giới, muốn đến nơi nào thì ứng niệm liền đến ngay, vì mỗi người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có thần túc thông. Thần túc thông thì có thể phân thân biến hóa giống như Phật, “thiên bá ức hóa thân, sở hóa chi thân, tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng” (trăm ngàn ức hóa thân, những hóa thân ấy tùy theo tâm của chúng sanh mà ứng hiện ra). Phật trong kinh Lăng-nghiêm nói câu này chính là tùy loại hóa thân, tức là chúng sanh nghĩ đến thân hình như thế nào thì họ hiện thân hình như thế đó, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát, đây là được đại tự tại.

Đoạn thứ mười chín:

❖ Nguyện thứ ba mươi chín: Trang nghiêm vô lượng.

“Ngã tác Phật thời, quốc trung vạn vật, nghiêm tịnh, quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xứng lượng”.

(Khi con thành Phật, vạn vật trong cõi nước con đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng chói, xinh đẹp, hình sắc đặc biệt thù thắng, vi diệu cùng cực, không thể tả xiết).

Từ đoạn này đến hết đoạn hai mươi hai là nói tình trạng hoàn cảnh của thế giới Tây Phương. Không thể diễn tả cặn kẽ trạng huống hoàn cảnh này, giới thiệu sơ lược một hai việc thì bạn có thể nhân đó mà suy ra cái đẹp của hoàn cảnh bên ấy. “Quốc trung vạn vật”, đây là tổng thuyết, tất cả vạn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, bởi vì thể của tất cả vạn vật đều do trân bảo làm thành.

Thế giới Tây Phương so với trái đất của chúng ta không biết lớn hơn bao nhiêu lần. Trái đất của chúng ta là đất cát sỏi đá, mặt đất không sạch, mặt đất ở thế giới Tây Phương bằng lưu ly, lưu ly là gì? Chúng ta gọi là ngọc phỉ thúy, rất là quý báu, người ta gắn lên một chút thương hiệu hoặc gắn vào nhẫn để đeo trên tay, vậy vật này là gì? Là đại địa của thế giới Tây Phương Cực Lạc, đại địa ở đó là lưu ly trong suốt, từ trên mặt đất có thể nhìn thấu dưới đáy. Ngọc ở nơi đó so với ngọc thạch của chúng ta thì đẹp hơn rất nhiều. Ngọc thạch của chúng ta chỉ là trong suốt một nửa, không phải toàn trong suốt, ngọc của thế giới Tây Phương là toàn trong suốt.

Từ trong kinh chúng ta thấy được, vàng dùng để làm gì? Là để lót đường, vàng dùng để lát đường như nhựa đường ở đây của chúng ta. Ở đây chúng ta đeo trên thân mình châu báu rực rỡ, còn người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc thấy đó là thô thiển không chịu nổi. Cho nên trang nghiêm thanh tịnh đều là trân bảo, “quang lệ” là quang minh, mỹ lệ, đây là quang minh hoa lệ, hình sắc thù đặc không phải thế gian có được. Ở thế gian này của chúng ta không thấy được, ở bên đó của họ đều có. “Cùng vi cực diệu”, bởi vì là tánh đức trong chân như bản tánh biến hiện ra. “Vô năng xứng lượng”, chữ “lượng” này nghĩa là gì? Số lượng, chủng loại rất nhiều, không có cách nào nói cho hết được.

“Kỳ chư chúng sanh tuy cụ thiên nhãn, hữu năng biện kỳ hình sắc quang tướng, danh số, cập tổng tuyên thuyết giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Chúng sanh nào dù có thiên nhãn mà có thể phân biệt được hình trạng, màu sắc, tướng trạng hào quang, danh tự, số lượng và nói tổng quát được những sự trang nghiêm ấy thì con không thành Chánh Giác).

Bồ-tát của thế giới Tây Phương Cực Lạc rất nhiều, được sự gia trì của A-di-đà Phật, họ có biết không? Họ cũng không biết. Nếu bạn hỏi họ có bao nhiêu chủng loại? Họ không nói được. Hỏi họ có bao nhiêu số lượng? Họ cũng nói không được. Chỉ có Phật với Phật mới có thể biết rốt ráo, từ Đẳng Giác Bồ-tát trở xuống đều không có cách nào nói được. Đây là nói tổng quát về vẻ đẹp thù thắng và hoàn cảnh vật chất của thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Đoạn thứ hai mươi:

❖ Nguyện thứ bốn mươi: Cây vô lượng sắc.

“Ngã tác Phật thời, quốc trung vô lượng sắc thụ, cao hoặc bá thiên do-tuần. Đạo tràng thụ cao tứ bá vạn lý. Chư Bồ-tát trung, tuy hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri”.

(Khi con thành Phật, cây trong cõi nước con có vô lượng sắc, cao trăm ngàn do-tuần. Cây Đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm. Trong các Bồ-tát, dù người thiện căn kém cỏi cũng có thể biết rõ).

Đây là trong tất cả tướng này nêu ra một thí dụ. Trong sự tưởng tượng của chúng ta, có lẽ tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều ưa thích cây cối hoa cỏ, cho nên Phật ở chỗ này nêu ra một thí dụ. “Vô lượng sắc”, cho thấy các cây cối đẹp quá, “cao hoặc bá thiên do-tuần”, các cây cao đến trăm ngàn do-tuần. Do-tuần là đơn vị chiều dài của Ấn Độ thời xưa, do-tuần có lớn vừa nhỏ. Đại do-tuần theo cách ghi chép ngày xưa là tám mươi dặm của Trung Quốc, trung do-tuần là sáu mươi dặm, tiểu do-tuần là bốn mươi dặm. Tám mươi dặm thời xưa so với tám mươi dặm ngày nay thì ngắn hơn, đó là vì thước đo lường thời xưa ngắn hơn thước đo lường ngày nay.

Quý vị đọc trong “Luật Học Tam Thập Tam Chủng” của Hoằng Nhất Đại Sư có một thiên Chu Xích Khảo, trong đó khảo sát về thước đời Chu: một thước lúc ấy đại khái bằng sáu tấc thước hiện thời (thị xích) (tức là chừng 18cm). Cho nên trong kinh ghi chép, người thời xưa thân cao trượng hai, chúng ta thời nay cho là người khổng lồ, hiện nay đều không thấy nữa, kỳ thật là một trăm chín mươi mấy cen-ti-met, đó là trượng hai thời đó. Chúng ta hiểu rõ chân tướng này thì biết ngay, không cảm thấy lạ lùng nữa.

Tuy nhiên, bất luận ngắn thế nào, trăm ngàn do-tuần thì cao vô cùng. Chiếu theo con số này mà nói, nếu cây này mà ở trên trái đất của chúng ta thì ngọn cây có thể đụng đến mặt trăng rồi. Tại sao có cây cao như vậy? Vì người Tây Phương Cực Lạc cao lớn, chúng ta đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì người ta xem mình như là loài kiến, rất là nhỏ, đây là do chúng ta không có phước báo. Trong kệ tán Phật, chúng ta tán thán A-di-đà Phật:

“Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-di,

Cám mục trừng thanh tứ đại hải.”

(Lông mày trắng của Ðức Phật A-di-đà tỏa ánh sáng soi tỏ khắp một khu vực rộng lớn bằng năm ngọn núi Tu-di. Ðôi mắt xanh biếc của Ngài thì trong ngần và lớn bằng bốn biển lớn.)

Tướng Phật lớn như vậy, thân tướng mỗi người bằng với A-di-đà Phật, đều là tướng lớn như thế đó. Cây cối của chúng ta, dù có cao đi nữa, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì quá nhỏ không nhìn thấy, nhất định phải lớn như vậy mới có thể tương xứng.

Cây ở đạo tràng thì càng trang nghiêm, “đạo tràng thụ cao tứ bá vạn lý”. Đạo tràng là nơi Phật giảng Kinh thuyết pháp, mà nơi Phật giảng kinh thuyết Pháp rất nhiều, nơi nơi đều có hóa thân của Phật, vậy có lẽ đây là nói nơi báo thân Phật thuyết Pháp. Tuy nhiên ở thế giới Tây Phương pháp thân, báo thân, ứng hóa thân đều hợp tại một nơi, đều là dung thông cả, tứ độ cũng ở một nơi. Vậy đây là nói rõ từ khắp nơi đều có thể trông thấy được cái cây nơi Đức Phật thuyết pháp. “Chư Bồ-tát trung, tuy hữu thiện căn liệt giả, diệc năng liễu tri”, bởi vì sao? Chúng ta chỉ biết được một vài loại, như ở trên địa cầu này, thực vật, động vật có bao nhiêu loại? Chúng ta không biết rõ. Cây cối thì đại khái chúng ta có thể chỉ nói ra một vài loại, tình tình là tương tự như thế. Điều tiếp theo thì càng thù thắng không thể nghĩ bàn.

Nguyện thứ bốn mươi mốt: Cây hiện cõi Phật.

“Dục kiến chư Phật tịnh quốc trang nghiêm, tất ư bảo thụ gian kiến, do như minh kính, đổ kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác”.

(Muốn thấy sự trang nghiêm nơi Tịnh Ðộ của chư Phật thì đều thấy rõ nơi thân cây ấy, như thấy rõ mặt mình ở trong gương sáng. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Điều này thật là hy hữu. Nếu chúng ta muốn thấy thế giới phương khác, tỉ như nói chúng ta sanh đến thế giới Cực Lạc, chúng ta rất tưởng nhớ trái đất này, mới vừa rời khỏi chỗ này, không biết tình trạng ra sao? Thì tướng đó hiện ra giống như trên truyền hình. Giữa những hàng cây liền hiện ra tướng. Chúng ta hiện nay xem truyền hình là bằng phẳng, còn tướng bên kia là lập thể, thấy được rõ ràng minh bạch, không cần dùng thiên nhãn, cái tướng bên ấy hiện ra trước mặt. Điều này thù thắng biết bao! Tất cả thế giới của chư Phật trong mười phương, muốn xem chỗ nào thì tướng liền hiện ra, công đức của cây không thể nghĩ bàn!

Đoạn thứ hai mươi mốt:

❖ Nguyện thứ bốn mươi hai: Chiếu khắp mười phương.

“Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh.”

(Khi con thành Phật, cõi nước con ở rộng lớn nghiêm tịnh).

“Quảng” là quảng đại, rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh.

“Quang oánh như kính.”

(Sáng chói như gương).

Bởi vì thế giới này đều là vô lượng bảo khiết tịnh không nhiễm bụi trần, “bảo” đều phóng quang, cho nên thế giới này là thế giới quang minh.

“Triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới.”

(Chiếu khắp mười phương vô lượng vô số không thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật).

Không chỉ là Phật quang chiếu khắp tất cả thế giới mà thế giới Tây Phương cũng phóng quang, ánh sáng của nó cũng chiếu khắp tất cả thế giới của chư Phật.

“Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm.”

(Chúng sanh thấy rồi sanh tâm hy hữu).

Chúng sanh nếu nhìn thấy được, sự thấy được này hoặc là do thiên nhãn mà thấy được, hoặc là trong định mà thấy được, hoặc là có nhân duyên đặc biệt cảm ứng mà thấy được, thấy được Phật quang, thấy được ánh sáng của thế giới Tây Phương. Họ nhất định sanh khởi tâm hy hữu ngưỡng mộ.

“Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.”

(Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Đoạn thứ hai mươi hai:

❖ Nguyện thứ bốn mươi ba: Hương báu xông khắp.

“Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không”

(Khi con thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không).

“Địa tế” là mặt đất, đến tận “hư không”, đây là nói cái gì? Các thứ trang nghiêm ở mặt đất và trên không trung.

“Cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ.”

(Cung điện, lâu đài, ao nước, hoa cây).

Chỗ này cần nói rõ chữ “cung điện”. Không thể hình dung đến hình dáng cung điện của Trung Quốc, nếu bạn nghĩ đến hình dáng này thì là sai rồi. Phật nói kinh này là ba ngàn năm về trước tại Ấn Độ, cung địên của Ấn Độ lúc bấy giờ hoàn toàn không giống với cung điện của Trung Quốc. Cho nên vừa nói đến cung điện liền nghĩ đến mái nhà uốn cong, vậy là sai rồi. Bạn phải biết cái gì gọi là “cung điện”? “Cung” tức là nhà của tư nhân, còn “điện” là nơi để mọi người tụ hội giảng kinh, nói pháp và làm việc. Vậy ở chỗ này bạn biết được tất cả chúng sanh mười phương đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, nơi mà chính họ ở, họ ưa thích hình dáng ra sao thì biến ra hình dáng như vậy, không phải là hoàn toàn giống nhau. Mỗi người có ưa thích khác nhau, thích kiểu gì thì là kiểu đó. Còn nơi mọi người tụ hội thì sao? Cũng không hoàn toàn giống nhau. “Lâu quán”, “lâu”, hai tầng trở lên gọi là lầu. “Trì lưu”, đây là nói ao bảy báu, “hoa thụ” là cây báu.

“Quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành.”

(Tất cả vạn vật trong nước đều do vô lượng bảo hương hợp thành).

Thật sự mà nói, đây là hương báu vốn sẵn có của tánh đức, là hương báu vốn sẵn có trong chân như bản tánh, không phải đến từ bên ngoài, cho nên tất cả vạn vật không có một thứ nào không tỏa hương.

“Kỳ hương phổ huân, thập phương thế giới.”

(Hương ấy xông khắp mười phương thế giới).

Những người được định, những người được thần thông đều ngửi được, người không có định, không có thần thông, nếu có nhân duyên đặc biệt cảm ứng cũng có thể ngửi được. Tôi nghĩ trong những đồng tu chúng ta, lúc niệm Phật hoặc tịnh tọa, lúc có cảm ứng có thể ngửi mùi hương kỳ lạ này. Loại hương này không có ở nhân gian, từ trước đến giờ chưa từng ngửi qua, tôi tin rằng nhất định có một số đồng tu có kinh nghiệm này. Tôi từng có kinh nghiệm này. Tôi còn nghe nói ở hội Phật giáo ở Dallas có vài đồng tu, ban đêm hóng mát ở trong sân, đang thảo luận Phật pháp, bỗng nhiên có một luồng hương thơm rất nồng, thời gian cũng rất dài, đại khái ba bốn phút, mùi hương lạ này chưa từng ngửi qua. Sau này họ đến hỏi tôi, không phải một người mà có đến năm sáu người đều ngửi thấy. Có thể thấy đây không phải là giả, đều là thuộc về loại này, là nhân duyên đặc biệt, Phật lực gia trì làm tăng trưởng lòng tin của bạn, cho nên thật sự là mùi hương vạn đức của pháp giới.

“Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh.”

(Chúng sanh ngửi được đều tu Phật hạnh).

Người ngửi được mùi hương ấy có loại cảm ứng này, họ có thể tăng trưởng tín tâm, nguyện tâm có thể thêm sức mạnh, điều này vô cùng khó có được.

“Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.”

(Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Hai nguyện nói trên là hương quang trang nghiêm, Phật lấy hương quang phổ nhiếp mười pháp giới chúng sanh, giới thiệu hoàn cảnh sinh hoạt của mọi người ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Trong hai đoạn cuối cùng, A-di-đà Phật vô cùng từ bi, đặc biệt vì Bồ-tát phương khác mà phát nguyện. Bồ-tát phương khác cũng nghe đến danh hiệu của A-di-đà Phật, vô cùng tôn kính, vô cùng hoan hỷ, cung kính tán thán. Tuy họ không phát tâm sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, A-di-đà Phật cũng gia trì cho họ, tại vì sao? Bởi vì họ tuyên dương Tịnh Độ, khuyên mọi người vãng sanh, Phật cũng gia trì họ.

Đoạn thứ hai mươi ba:

❖ Nguyện thứ bốn mươi bốn: Phổ đẳng Tam-muội.

“Ngã tác Phật thời, thập phương Phật sát chư Bồ-tát chúng, văn ngã danh dĩ, giai tất đãi đắc thanh tịnh, giải thoát, Phổ đẳng Tam-muội, chư thâm tổng trì, trụ Tam-ma-địa, chí ư thành Phật.”

(Khi con thành Phật, các bậc Bồ-tát trong mười phương cõi Phật, nghe danh con rồi đều đạt được thanh tịnh, giải thoát, Phổ đẳng Tam-muội, các Tổng trì sâu, trụ Tam-ma-địa, cho đến thành Phật).

Trong kinh văn nói rất rõ ràng, đây là chư Bồ-tát trong mười phương cõi Phật, không phải là chúng sanh bình thường. Bồ-tát cũng phải có thiện căn, phước đức, nhân duyên đầy đủ mới có thể nghe được sáu chữ hồng danh. Trong lúc giảng chúng tôi đã nói rất nhiều lần, công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn. Họ có thể nghe được, có thể gặp được Kinh Vô Lượng Thọ, đầy đủ tín nguyện, tuy tự mình không phát tâm vãng sanh, các Bồ-tát vẫn phải ở trong tất cả các thế giới phổ độ chúng sanh, dùng phương pháp gì để độ? Khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, vậy thì được oai thần của bổn nguyện Di-đà gia trì. Bổn nguyện này tức là năm nguyện sau cùng. A-di-đà Phật muốn gia trì các Bồ-tát này, khiến cho các Bồ-tát này bất luận ở trong cảnh duyên gì, chữ “cảnh” này là nói về hoàn cảnh vật chất, lục đạo hoặc là tam đồ cũng đều là hoàn cảnh. Còn “duyên” là hoàn cảnh nhân sự. Trong bất kỳ hoàn cảnh vật chất, hoàn cảnh nhân sự nào, họ đều có thể giữ được thân tâm thanh tịnh, không bị ngoại cảnh làm ô nhiễm, đây là nhờ A-di-đà Phật phù hộ, gia trì cho họ, bởi vì Bồ-tát vẫn là hữu tình chúng sanh. “Giải thoát”, nghĩa là tự tại, nhất định sẽ không khởi vọng tưởng chấp trước, sẽ không sanh tham sân si mạn. “Phổ đẳng” là phổ biến, bình đẳng, tâm của họ giống như tâm Phật. “Tam-muội”, đương nhiên là chỉ cho niệm Phật Tam-muội, niệm Phật Tam-muội là vua trong Tam-muội, không có gì thù thắng hơn. Những vị Bồ-tát khác không biết, nhóm Bồ-tát này biết [niệm Phật Tam-muội là vua trong Tam-muội]. Điểm này chúng ta phải nhận thức rõ ràng, Pháp môn này thật sự mà nói là tất cả chư Phật phổ biến, hoằng dương, làm gì có Bồ-tát không biết? Chúng ta nghe được nhất định sẽ cảm thấy lạ lùng. Kỳ thật, những Bồ-tát không biết thì rất nhiều.

Pháp môn Tịnh Tông này, chúng ta cũng phổ biến, hoằng dương trên thế giới, có ai mà không biết đến A-di-đà Phật, những người không niệm Phật cũng biết A-di-đà Phật, Cơ Đốc Giáo, Thiên Chúa Giáo cũng biết A-di-đà Phật. Tuy họ biết nhưng họ không tin, họ không lý giải, họ cũng không có nguyện tâm, như vậy thì biết cũng như không biết. Cho nên có rất nhiều Bồ-tát giống như vậy, chúng ta nói họ không nghe, không thấy, đúng là “thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn” (nhìn mà chẳng thấy, nghe như không nghe), họ không có tín nguyện, họ không có lý giải. Đây là nói tình hình như vậy, cho nên họ thật sự hiểu rõ, tín nguyện, thật sự họ tự mình tu niệm Phật Tam-muội cũng cần phải khuyên tất cả chúng sanh cùng tu niệm Phật Tam-muội.

“Chư thâm tổng trì”, “tổng trì” là “Đà-ra-ni” của tiếng Phạn, có nghĩa là tổng hết cả pháp, trì hết thảy ý, hiện nay chúng ta gọi là “cương lĩnh”. Tổng trì nghĩa là nắm lấy cương lĩnh toàn bộ Phật pháp, ở trong hành môn có thể nói là thiện tuyệt đối không thể mất đi. Chúng ta đều biết tu thiện, tu thiện phải có thiện hạnh, phải có thiện nguyện, còn phải có cơ hội cho bạn tu. Nếu không có cơ hội, tuy muốn tu thiện mà tu vẫn không thành. Họ đều có thể nắm lấy mọi cơ hội, đều không để mất, điều này rất khó. Ác không sanh, không những việc ác và lời ác đều không có, mà niệm ác cũng không sanh, điều này ở nơi hành môn “chư thâm tổng trì” có thể nói là cương lĩnh vô cùng quan trọng. “Tam-ma-địa” là Phạn ngữ, trong Kinh Lăng-nghiêm gọi là Sa-ma-tha, Tam-ma-địa, Thiền-na, đều là danh xưng của thiền định. Vậy chỗ này tức là an trụ trong định. “Đắc thành Chánh Giác, chí ư thành Phật”, đây đều là oai thần của A-di-đà Phật gia trì, nhóm Bồ-tát này vì nghe tên mà được lợi ích vô cùng thù thắng.

❖ Nguyện thứ bốn mươi lăm: Trong định cúng Phật.

“Định trung thường cúng vô lượng vô biên nhất thiết chư Phật, bất thất định ý. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.”

(Trong định thường cúng dường vô lượng vô biên chư Phật vẫn không mất định ý. Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh Giác).

Phần trước chúng ta thấy được những Bồ-tát vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có đầy đủ lợi ích này, những Bồ-tát nghe danh mà không được sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc có thể có được lợi ích này chăng? Cũng được. Địa Thượng Bồ-tát, hoặc như trong Kinh nói với chúng ta về A-duy-việt-trí Bồ-tát Thất Địa trở lên, những vị không được Phật gia trì cũng có năng lực này. Còn những vị Bồ-tát Địa Tiền trở xuống (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) không có năng lực này, trí huệ, đạo lực, thần thông của họ không lớn như vậy. Vừa được oai thần của A-di-đà Phật gia trì, năng lực của họ liền được nâng cao lên, giống như Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa Bồ-tát. Có năng lực lớn như vậy, có thể trong một niệm phổ biến cúng dường mười phương vô lượng vô biên chư Phật, không khác biệt với những người vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, được lợi ích như nhau. Vậy có thể thấy, tâm Di-đà là bình đẳng, không thể nói “bạn sanh đến thế giới của tôi thì tôi gia trì, bạn không đến thì tôi không đếm xỉa gì đến bạn”. Không phải như vậy. Tâm của Di-đà không có phân biệt, không có chấp trước. Cái tâm này thật sự là tâm thanh tịnh, bình đẳng, chúng ta cũng nên học tập, chúng ta học cách nào đây?

Trong xã hội hiện tại, Phật giáo có rất nhiều tông phái, ngoài Tịnh Độ còn có Thiền Tông, Mật Tông, trong Giáo Hạ có tông Thiên Thai, có người học Pháp Tướng Duy Thức. Chúng ta nên dùng thái độ gì đối với những bạn đồng tu này? Nên học A-di-đà Phật. Không thể nói: “Tôi tu Tịnh Độ, Tịnh Độ là đệ nhất, các bạn không bằng tôi”, vậy là có phân biệt, có chấp trước, khởi cống cao ngã mạn, điều này không tương ưng với A-di-đà Phật. Di-đà đối với người là bình đẳng. Người khác đối với ta không bình đẳng đó là việc của họ, ta nên yêu cầu chính mình, mình đối với người khác phải bình đẳng. Bất luận họ tu học Pháp môn nào, chúng ta đều hoan hỷ tán thán, nhất định không thể “tự tán hủy tha” (khen mình chê người). Trong Du-già Bồ-tát Giới Bổn, “tự tán hủy tha” được liệt vào điều đệ nhất trọng giới. Nhất định nên sanh tâm bình đẳng, bởi vì tất cả Phật pháp đều do Phật nói, nếu chúng ta tự tán thán Pháp môn của mình, phỉ báng Pháp môn khác thì tức là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, đó là sai rồi. Cho nên phải đối xử bình đẳng giống như Phật. Đối với pháp môn một đời thành tựu này họ tin được, giải được, là thiện căn trong vô lượng kiếp của họ đã chín muồi. Sau khi nghe rồi họ không tin, họ không chịu phát nguyện, thậm chí bài xích thì chúng ta biết thiện căn của họ chưa chín muồi, không thể trách họ, Pháp môn này gọi là Nan Tín Chi Pháp, vậy là được rồi. Cho nên tâm địa chúng ta phải giữ được thanh tịnh. Đây là định trung năng cúng Phật (trong định có thể cúng Phật), cúng Phật mà không mất định ý, tức là không bị ngoại cảnh chuyển.

Đoạn thứ hai mươi bốn:

❖ Nguyện thứ bốn mươi sáu: Được môn Tổng trì.

“Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ-tát chúng.”

(Khi con thành Phật, các bậc Bồ-tát ở thế giới khác)

Phía trước nói “mười phương Phật sát chư Bồ-tát chúng”, chỗ này thì nói “tha phương thế giới chư Bồ-tát chúng”, ý nghĩa hoàn toàn giống nhau, đều là chỉ những Bồ-tát không phải ở thế giới Tây Phương Cực Lạc.

“Văn ngã danh giả”

(Nghe danh con).

Trong chữ “văn” này nhất định bao gồm tín, giải, vui mừng, ưa thích. Họ có thể sanh tâm cung kính, tôn trọng A-di-đà Phật. Tuy không cầu vãng sanh, họ có thể lấy pháp môn này để tự mình tu học, lấy pháp môn này để giáo hóa chúng sanh, thì nhất định được Di-đà gia trì.

“Chứng ly sanh pháp, hoạch Đà-ra-ni.”

(Chứng ly sanh pháp, được các môn Đà-ra-ni)

Chữ “sanh” này tức là sanh tử, sanh tử có hai loại: Một loại là phần đoạn sanh tử, một loại là biến dịch sanh tử. Phàm phu chúng ta có đủ hai loại này. “Phần đoạn” là gì? Là từng giai đoạn, chúng ta từ lúc ban sơ nhất mà nhìn, con người chúng ta tại nhân gian, từ sanh đến tử, đây là một giai đoạn. Sau khi chết rồi lại đi đầu thai, lại sanh, sanh rồi lại tử. Phật bảo “sanh tử bì lao” (sanh tử mỏi mệt) không có ngừng nghỉ. Sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh, lục đạo phàm phu là làm những việc này. Cho nên Phật thấy những chúng sanh này là kẻ đáng thương, không có cách để chấm dứt, không có cách xuất ly lục đạo luân hồi, đây là nói về “phần đoạn”.

Còn “biến dịch” thì sao? Là biến hóa, cái này thì thật vi tế, chúng ta cũng có thể thấy ra được, tỉ như nói chúng ta mỗi năm một già đi, đây tức là biến dịch. Kỳ thật có phải mỗi năm một già đi chăng? Mỗi tháng một già đi, mỗi tuần một già đi, mỗi ngày một già đi, tôi nghĩ điều này mọi người đều đồng ý, lại nói vi tế thêm một chút, mỗi giây một già đi, đây gọi là “biến dịch sanh tử”. Từ A-la-hán trở lên đã liễu phần đoạn sanh tử rồi, tức là chúng ta nói liễu sanh tử, siêu vượt luân hồi rồi, tuy nhiên vẫn còn biến dịch sanh tử, biến dịch sanh tử đến bao giờ mới dứt? Khi thành Phật thì dứt hết. Đẳng Giác Bồ-tát vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, họ phải phá một phẩm sanh tướng vô minh đó, đó là lần biến dịch sau cùng. Hai loại sanh tử này hoàn toàn không còn nữa, là cảnh giới trên quả địa của Như Lai. Ở đây, A-di-đà Phật giúp đỡ những Bồ-tát này “chứng ly sanh pháp”, nói một cách cạn cợt là “vĩnh thoát tam giới”, nói sâu hơn là nhờ Phật lực gia trì họ đều có thể vĩnh ly hai loại sanh tử.

“Hoạch Đà-ra-ni”, “Đà-ra-ni” tức là Tổng Trì, tâm an trụ tại pháp môn Tổng Trì. Đà-ra-ni, trong kinh Đại Thừa, có ý nghĩa vô cùng rộng lớn! Bởi vì nó nói về cương lĩnh, nói về nguyên tắc, trong kinh nào thì xem nó nói đến cương lĩnh nào, nguyên tắc nào. Trong Kinh điển Tịnh Tông, Đà-ra-ni tức là sáu chữ hồng danh. Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe được danh hiệu của Phật, biết được công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn thì tâm an trụ trong sáu chữ hồng danh. Có bạn đồng tu hỏi rằng: “Bồ-tát niệm Phật tại sao không cầu vãng sanh?” Phía trước đã nói qua, nguyện lực của mỗi vị Bồ-tát không giống nhau, có một số Bồ-tát nghe được rồi liền gấp rút cầu vãng sanh, tại sao vậy? Vì muốn mau thành Phật, sau khi thành Phật mới phổ độ chúng sanh. Còn có một số Bồ-tát có nguyện vọng là “ta chỉ muốn được Phật gia trì, ta muốn độ nhiều chúng sanh, chúng sanh thành Phật rồi ta mới thành Phật”. Đây là chỉ cho loại người này, quý vị nên biết họ đích thực là Bồ-tát, họ đích thật đã ra khỏi tam giới, có bản lĩnh giúp đỡ chúng sanh.

Chúng ta ngày nay đã thọ Bồ-tát giới rồi, phát nguyện học theo Địa Tạng Bồ-tát, không thể được, vì không có bản lãnh, phiền não chưa đoạn, vẫn tiếp tục sanh tử luân hồi. như vậy thì không độ được chúng sanh, dù có nguyện này nhưng làm không nổi. Làm không nổi thì nhất định phải vãng sanh thế giới Cực Lạc. Nếu muốn tự mình có thể làm được thì ít nhất phải đoạn kiến tư phiền não, tam giới lục đạo không thể ràng buộc được bạn, bạn niệm A-di-đà Phật cầu Phật lực gia trì, bạn rộng độ chúng sanh mà không cần phải nóng lòng vãng sanh. Cho nên năm nguyện sau cùng này là đối với những người này mà nói, không phải là nói với chúng ta. Chúng ta không phải Bồ-tát, quý vị muôn ngàn lần xin chớ hiểu lầm “thọ Bồ-tát giới rồi chính là Bồ-tát”, đó chỉ là Bồ-tát bằng đất, hữu danh vô thực, không phải Bồ-tát thật, phải nhận thức điều này rõ ràng.

❖ Nguyện thứ bốn mươi bảy: Nghe danh được pháp Nhẫn.

“Thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ”.

(Thanh tịnh hoan hỷ, được bình đẳng trụ).

Văn danh tín giải, nguyện tâm hoan hỷ, an trụ nơi công đức bình đẳng, an trụ nơi pháp môn bình đẳng. Quý vị nên biết, pháp môn bình đẳng tức là Kinh Vô Lượng Thọ, tức là sáu chữ hồng danh. Bình đẳng là thể tướng của tất cả pháp, thể của tất cả các pháp là bình đẳng, “thể” là gì? Là pháp tánh, cho nên tướng cũng bình đẳng. Vậy ngày nay chúng ta cảm giác không phải bình đẳng, nguyên nhân này là gì? Vì chính chúng ta có tâm phân biệt, có tâm vọng tưởng, tâm này không bình đẳng, cho nên nhìn cảnh giới bên ngoài cũng không bình đẳng. Chúng ta đem Nhất Chân Pháp Giới xem thành Thập Pháp Giới, việc này cũng từ trên cương lĩnh quy nạp mà nói, kỳ thật là vô lượng vô biên pháp giới, nên lúc này là không bình đẳng. Mười phương Bồ-tát, thật sự mà nói chúng sanh căn tánh thật sự tốt cũng có thể tu Bồ-tát hạnh, cũng có thể học Bồ-tát đạo, cũng có thể được bình đẳng trụ này. Vậy chúng ta đối với A-di-đà Phật, đối với kinh điển của Tịnh Tông, hiện nay Kinh điển của tịnh Tông là năm Kinh, chúng ta có thể thấy tướng nghe danh, tướng này có tượng Phật, kinh điển cũng là tướng, thấy tướng nghe danh được Phật gia trì đều có thể có được lợi ích của công đức thù thắng. Tâm bình đẳng, niệm bình đẳng đây là nền tảng trong tất cả bình đẳng, chúng ta mới thật sự có được pháp bình đẳng.

Trong quá trình tu học, một câu Phật hiệu này, thật sự mà nói tức là toàn thể pháp giới. Trong phần phía trước báo cáo với quý vị, đặc biệt là trong nguyện thứ mười tám, Cổ Đức nghiên cứu so sánh tất cả kinh, so sánh đến cuối cùng, tức là một câu Phật hiệu này. Chúng ta từ trong sự so sánh này mà lĩnh hội được công đức Phật hiệu không thể nghĩ bàn. Phật hiệu tức là tất cả pháp, tất cả pháp đều quay về danh hiệu, đến chỗ này đã thực sự bình đẳng. Tất cả Pháp môn đến cuối cùng đều quay về một câu danh hiệu này, điều này thù thắng không gì sánh bằng! Dụng công, điều quan trọng là tịnh niệm liên tục, công phu đạt đến tịnh niệm liên tục rồi thì niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, như vậy là được bình đẳng trụ rồi. Cái tâm như vậy, hành trì như vậy là Bồ-tát hạnh chân thật.

“Tu Bồ-tát hạnh, cụ túc đức bổn.”

(Tu Bồ-tát hạnh, đầy đủ gốc đức).

“Cụ túc đức bổn”, ở chỗ này đặc biệt chú trọng nơi việc làm lợi ích cho chúng sanh bằng pháp môn này. Chúng ta toàn tâm toàn lực phổ biến rộng ra, bởi vì chúng ta hiểu rõ rồi, chỉ có Pháp môn này mới có thể khiến cho tất cả chúng sanh trong một đời thật sự được độ. Còn các Pháp môn khác thì người thông thường không thể tu học được. Cứ lấy Thiền Tông mà nói, Lục Tổ Đại Sư trong Kinh Pháp Bảo Đàn có nói, đối tượng hóa độ của Ngài là ai? Là người thượng thượng căn. Vậy người thượng và trung căn trở xuống không có phần. Lời Ngài nói rất có đạo lý. Chúng ta đừng nói gì đến hạng quá cao, chúng ta chỉ nói đến hạng tối thiểu, thấp nhất vẫn chưa ra khỏi tam giới, Sơ Thiền trong Sắc giới, đây là mức thấp nhất trong Thiền Tông, Sơ Thiền là cảnh giới gì? Sơ Thiền đã lìa khỏi dục, không còn ở Dục giới nữa, đã đến Sắc giới rồi. “Dục” là gì vậy? Là ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy. Trong tâm không còn những niệm này nữa mới có thể đến Sơ Thiền. Chúng ta tự thử nghĩ năm thứ này có còn làm động tâm ta chăng? Nếu vẫn động tâm thì bạn vẫn còn ở Dục giới, Sơ Thiền không có phần. Vậy mới biết thật là khó. Tôi có thể giảng khẩu đầu Thiền[1], tôi đã từng giảng Kinh Kim Cang, giảng Lục Tổ Đàn Kinh, còn giảng qua Vĩnh Gia Thiền Tông Tập, Chứng Đạo Ca… từng giảng qua không ít khẩu đầu Thiền của Thiền Tông. Người ta hỏi tôi: “Thầy biết giảng, tại sao không tu theo?” Tôi bèn nói thật: “Tôi chưa đoạn được ý niệm về tài, sắc, danh, thực, thùy, đoạn không nổi”. Tôi biết được việc ấy quá khó, cho nên mới quay đầu trở lại, nghe nói không cần đoạn cũng được vãng sanh, tôi tức khắc quay trở lại. Pháp môn Tịnh Độ này cứu được, có phần. Cách này không cần đoạn, đới nghiệp vãng sanh, hễ đè phục là được, không cần đoạn. Có thể thấy Thiền thật sự không phải là dễ dàng.

Trước kia, lão Pháp sư Đàm Hư (là vị Đại Đức của Tông Thiên Thai, Ngài niệm Phật vãng sanh) từng nói: Trong đời Ngài, người tu Thiền đạt “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, một người Ngài cũng không nghe qua, đương nhiên càng không thấy qua. Nói tu Thiền được thiền định, có thể sinh Sơ Thiền Thiên, Nhị Thiền Thiên thì Ngài có thấy qua, Ngài có nghe nói. Quý vị nên biết, được Tứ Thiền Định, được Tứ Không Định vẫn chưa ra khỏi tam giới, khi phước báo hết rồi vẫn phải đọa lạc. Vậy có lợi ích gì đâu! Không phải là cứu cánh. Muốn từ trong Thiền mà siêu vượt tam giới thì không phải là việc đơn giản, tuyệt đối không phải người thường có thể làm được. Lục Tổ Đại Sư nói đó là lời chân thật, người thượng thượng căn. Trong Lục Tổ Đàn Kinh chúng ta thấy được, trong những học trò của Lục Tổ Đại Sư, số người minh tâm kiến tánh được kể như là nhiều nhất. Những người theo học Lục Tổ Đại Sư là bao nhiêu? Có ngàn vạn người mà thật sự thành tựu chỉ có bốn mươi ba người thôi. Đây là trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc, những người kiến tánh khai ngộ nhiều nhất rồi đó. Trong hội của những Tổ Sư Đại Đức khác, chỉ có một người, hai người, ba bốn người khai ngộ là nhiều nhất. Chúng ta từ đó biết được chỗ khó khăn.

Còn những người niệm Phật vãng sanh, từ xưa đến nay, những người y theo pháp môn Tịnh Tông tu học được vãng sanh không biết là bao nhiêu, không đếm hết được! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, chuyện vãng sanh thu thập được, đó chỉ là nghe ngóng thôi, còn rất nhiều người vãng sanh không thông báo cho bạn, cũng không có đăng quảng cáo bên ngoài, cho nên những người thật sự vãng sanh mà chúng ta không biết là rất nhiều. Trong Vãng Sanh Truyện, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục ghi chép là số ít, còn số nhiều thì không biết được, do đây thì biết được sự thù thắng của pháp môn này. Cổ Đức nói: “Vạn người tu vạn người đi”.

“Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam Nhẫn.”

(Nếu ngay lập tức chẳng đạt được ba thứ Nhẫn).

Đây là nói về nghe danh được pháp Nhẫn, sự gia trì của A-di-đà Phật đặc biệt hiện rõ. “Nhất nhị tam Nhẫn”, tức là phần sau của bổn Kinh nói “Âm Hưởng Nhẫn, Nhu Thuận Nhẫn, Vô Sanh Pháp Nhẫn”, tuy nhiên không nói rõ là Bồ-tát ở địa vị nào thì đạt được ba thứ Nhẫn này. Trong kinh Nhân Vương Bát-nhã, Phật nói rất tường tận, dùng năm thứ Nhẫn làm biểu đạt cho năm mươi vị Bồ-tát, từ đó chúng ta có thể khẳng định Âm Hưởng Nhẫn là Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa Bồ-tát, còn Nhu Thuận Nhẫn là Tứ Ngũ Lục Địa, Vô Sanh Pháp Nhẫn là Thất Bát Cửu Địa, Thập Địa trở lên là Tịch Diệt Nhẫn. Tam Hiền vị Bồ-tát (Bồ Tát chưa đăng địa: Thập Trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi Hướng) được uy thần của A-di-đà Phật gia trì thì địa vị của họ thăng đến Địa Thượng Bồ-tát, câu này chủ yếu là biểu đạt cho ý nghĩa này.

❖ Nguyện thứ bốn mươi tám: Chứng Bất Thoái Chuyển trong hiện đời.

“Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.”

(Nơi các Phật pháp mà không chứng ngay được bậc Bất Thoái Chuyển, thề không thành Chánh Giác).

Đây là nói rõ những vị Bồ-tát này cũng giống như các vị Bồ-tát ở Thế giới Cực Lạc viên chứng Tam Bất Thoái. Từ câu này khẳng định “Nhất Nhị Tam Nhẫn Bồ-tát” nói ở phần trước đích thực là chỉ quả vị của Địa Thượng (từ Sơ Địa cho đến Thập Địa) Bồ-tát. Đây là công đức, lợi ích của sự nghe danh, tin ưa và sự gia trì của A-di-đà Phật đối với mười phương Bồ-tát.

Trích đoạn trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH – Giảng năm 1994
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 9-10-11-12

Bài viết liên quan

Niệm Phật vãng sanh Tịnh độ là đi làm Phật, ai cũng có phần

Thiện Quang

Việc tu học thành bại mấu chốt là ở đâu?

Thiện Quang

Đọc tụng Kinh tốt nhất là đọc ra tiếng

Thiện Quang

Công đức và Phước đức phải phân biệt rõ ràng

Thiện Quang

Người chân thật tu hành không thể xa rời Giới Định Tuệ

thienquang242017

Không có một pháp nào chẳng phải là A Di Đà Phật

Thiện Quang

Vì sao phải Hằng thuận chúng sanh?

Thiện Quang

3 loại đau bệnh theo quan điểm đạo Phật

thienquang242017

Dùng phương cách gì để giúp chúng sanh thành Phật?

Thiện Quang

Leave a Comment