Kinh Vô Lượng Thọ

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 2: Đức Tuân Phổ Hiền tập 5

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm thứ 2: Đức Tuân Phổ Hiền tập 5 – Trí Thượng, Tịch Căn, Tín Huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng, Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát Bồ Tát.

Kinh văn: Hựu Hiền Hộ đẳng, thập lục chánh sĩ, sở vị Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hành Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, nhi vi thượng thủ.

Dịch: Lại có mười sáu vị Bồ Tát tại gia: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, là những bậc thượng thủ.

Ý nghĩa mà vị Bồ Tát Bảo Tràng phía trước biểu thị, chúng ta phải làm thế nào để học tập và thực tiễn ngay trong đời sống của chúng ta? Lần trước tôi đã giảng giải rất tỉ mỉ, thế nhưng ý nghĩa vẫn chưa có thể hoàn toàn biểu đạt ra hết. Phía trước nói Bảo Tràng cùng Quang Anh, Quang Anh là nói hình tướng, Bảo Tràng là nói chúng ta phải đem tuyên dương pháp môn này, cũng chính là trong Kinh Thế Tôn thường hay khuyên dạy chúng ta: “Đọc tụng, thọ trì, vì người diễn nói”. Hai vị Bồ Tát này đích thực đại biểu ý nghĩa này. Do đó bốn chúng đệ tử chúng ta, không luận là hiện tại chúng ta trải qua đời sống như thế nào, từ nơi công việc nghề nghiệp nào, đều phải nên dẫn đầu làm gương cho đại chúng xã hội, làm mô phạm cho đại chúng xã hội, đó chính là nghĩa thú mà hai vị Bồ Tát này biểu thị.

Vị thứ tám, Trí Thượng Bồ Tát

Trí Thượng Bồ Tát đại biểu cho trí tuệ cao độ, trí tuệ viên mãn, diệu trí vô thượng, cho nên lợi ích chân thật trong Phật pháp liền đã thực tiễn rồi. Chúng ta trải qua đời sống phiền não, chúng ta quan sát xã hội này, không luận là giàu sang hay bần tiện, mỗi mỗi đều có phiền não, người sang có phiền não của người sang, người giàu có phiền não của người giàu, người bần cùng có phiền não của người bần cùng, tất cả đều là trải qua ngày tháng trong phiền não, đều là rất khổ đau. Về việc này không phải nói chỉ ngay đời này, mà vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp đều là như vậy, đúng như người thế gian thường nói “việc không vừa ý thường là đến tám, chín”. Do đây có thể biết, việc vừa ý chỉ chiếm một phần mười, còn về sau, vị lai vô cùng, ngày tháng khổ như vậy phải đến lúc nào thì mới có thể ngóc đầu? Điều này thì phải xem duyên phận của bạn. Duyên phận gì vậy? Duyên phận gặp được Phật pháp. Bạn chân thật có duyên, có duyên còn phải có thêm hai điều kiện thì bạn mới có thể đến được viên mãn, đó chính là trên Kinh A Di Đà đã nói: “Không thể thiếu Thiện Căn – Phước Đức – Nhân Duyên mà được sanh nước kia”. Nhân duyên bạn có đầy đủ rồi, bạn gặp được Phật pháp, gặp được pháp Đại thừa, nhất là gặp được Kinh Vô Lượng Thọ Tịnh tông, đó là việc hy hữu không gì bằng. Sau khi duyên đầy đủ, ngay đời này bạn có thể thay đổi được đời sống của bạn hay không thì phải xem thiện căn, phước đức của bạn. Nếu như bạn có thiện căn, có phước đức thì đời sống của bạn lập tức liền thay đổi, trong Phật pháp gọi là “lìa khổ được vui”. Điều này rất là hiện thực, không phải giả. Hiện tại bạn liền lìa khổ, hơn nữa lìa tất cả khổ, được vui viên mãn, bạn nói xem, tự tại dường nào! Thiện căn, phước đức là then chốt.

Cái gì gọi là thiện căn? Thiện căn là thật tín, thật lý giải thông suốt. Tín-Giải là thuộc về thiện căn, Nguyện-Hạnh là thuộc về phước đức. Bạn có nguyện này không? Bạn có chịu làm không? Có cái nguyện này và lại chịu làm theo thì bạn là người đại phước báo, từ nay về sau, bạn không còn trải qua ngày tháng của phiền não nữa, bạn sẽ trải qua đời sống trí tuệ cao độ. Đó chính là trong Phật pháp thường gọi là “chuyển phiền não thành Bồ Đề”, đó chính là Trí Thượng Bồ Tát.

Chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển đời sống phiền não của chúng ta trở thành đời sống trí tuệ cao độ, vậy thì đời sống của bạn cùng với chư Phật Bồ Tát, Pháp Thân Đại Sĩ không hề khác biệt. Nói đến chỗ này, có lẽ có đồng tu liền hỏi, vậy thì có phải có thể chuyển bần cùng của chúng tôi thành giàu sang hay không? Không phải vậy, bần cùng vẫn là bần cùng, thế nhưng bần cùng mà không khổ, không có phiền não, bần cùng mà an vui, vậy thì tự tại. Nếu như bạn không tin tưởng thì bạn hãy xem qua “Hư Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ”, Lão Hòa Thượng Hư Vân đi viếng Ngũ Đài sơn, phát tâm chân thành, ba bước một lạy, lộ trình mấy ngàn dặm, lạy hết ba năm mới đến nơi. Trên đường đi Ngài gặp rất nhiều gian khổ, khi Ngài gặp đại nạn, khi gặp trọng bệnh, khi không có người giúp đỡ, thì có một người xin ăn tên là Hóa Tử đến giúp đỡ Ngài, giúp rất nhiều lần, cho nên Lão Hòa Thượng rất cảm kích đối với ông ấy, hỏi ông ấy tên gọi là gì? Người xin ăn đó nói, ông tên Văn Kiết (Văn của văn chương, Kiết của kiết tường). Hỏi ông ở nơi đâu thì ông ấy nói ông ở dưới núi Ngũ Đài Sơn, Ngài đến Ngũ Đài Sơn thì có thể gặp được tôi. Sau đó Lão Hòa Thượng lạy đến Ngũ Đài Sơn, hỏi thăm mọi người ở đó về một người xin ăn tên Văn Kiết xem có người nào biết hay không? Mọi người đều nói đó là Bồ Tát Văn Thù. Bồ Tát Văn Thù xin ăn, làm người ăn mày, vui vẻ không gì bằng, an vui không gì bằng. Các vị phải nên biết, Phật nhất định sẽ không giúp chúng ta tăng thêm tham-sân-si. Nếu bạn nói, chúng ta lạy Phật liền có rất nhiều tiền, có thể làm quan to, vậy bạn hoàn toàn sai rồi. Phật Bồ Tát sẽ không giúp đỡ bạn những thứ này, Phật Bồ Tát giúp đỡ bạn giác ngộ, giúp đỡ bạn hiểu rõ chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Giác ngộ rồi thì an vui! Người giác ngộ thì gặp gì cũng vui, đó là đời sống trí tuệ cao đẳng. Đời sống trí tuệ cao đẳng không phải là ở giàu có. Giàu sang hay bần tiện của thế gian, Phật không thể giúp đỡ. Vì sao Phật không thể giúp đỡ? Vì đó là quan hệ nhân quả. Đời trước bạn không có tu nhân bố thí thì đời này không được hưởng thọ của giàu sang. Nếu như Phật có thể giúp được cho bạn, thì chẳng phải là phá vỡ đi định luật của nhân quả rồi sao, làm gì có loại đạo lý này? Những lý lẽ sâu sắc này cùng với sự tướng phức tạp chỉ có Phật tường tận, chỉ có Phật thấu đáo, cho nên Phật được gọi là Thánh nhân. Ý nghĩa của “Thánh” là gì? Thâm minh nghĩa lý, đối với sự lý của vũ trụ nhân sanh thông đạt thấu hiểu triệt để thì gọi là Thánh. Nhân như thế nào thì được quả báo như thế đó. Cho nên Phật dạy chúng ta, nếu như bạn muốn giàu sang, muốn tuổi thọ dài lâu, Phật dạy bạn tu nhân. Bạn chính mình tu nhân thì quả báo sẽ hiện tiền. Nếu như tu nhân rất nỗ lực, rất dũng mãnh, quả báo đó không đợi đến đời sau mà sẽ có được ngay trong đời này, cho nên chúng ta nhất định phải dõng mãnh, tinh tấn thì sẽ chuyển biến nhân quả của chính mình.

Phật chỉ đạo, dạy bảo chúng ta, còn việc thì nhất định chúng ta tự mình phải đi làm. Sau khi chúng ta nghe Phật dạy rồi, không chịu y giáo làm theo thì không còn cách nào, chúng ta không thể chuyển được nghiệp lực. Tuy là không thể chuyển được, nhưng nếu như chân thật thông hiểu Phật pháp, bạn liền tự tại, an lạc, bạn trải qua đời sống của Phật Bồ Tát, không còn trải qua đời sống của phàm phu nữa. Vì sao vậy? Bạn có trí tuệ. Trí tuệ từ đâu mà có? Trí tuệ từ Quang Anh, Bảo Tràng mà có được, chính là nghe pháp, tu trì mà có được. Thế nhưng vì sao người có trí tuệ, có phước báo, rất thông minh nhưng còn làm ra những việc hồ đồ? Cái lý này rất sâu. Lý là gì vậy? Do nghiệp lực sai khiến, rất đáng sợ! Trong thế xuất thế gian pháp, chúng ta tỉ mỉ quan sát, đều có đủ. Chúng ta thấy được, thậm chí chính mình gặp phải rồi, tâm địa phải bình hòa, nhất định phải tuân thủ giáo huấn của Phật, không được trái phạm. Bạn xem, vào thời nhà Đường, Đường Thái Tông là một vị vua anh minh trong các đế vương nhiều đời ở Trung Quốc. Việc đáng tiếc lớn nhất của cả đời ông là khi ông làm Hoàng đế thì giết chết luôn anh em của ông, đó là vết nhơ của ông trong lịch sử. Đối với thành tích của ông không ai không bội phục, thế nhưng đối với điểm này không có ai tán đồng, không có tình anh em.

Chúng ta lại xem một thí dụ, triều nhà Thanh, Hoàng đế Ung Chánh – con trai của vua Khang Hy, khi Ung Chánh làm Hoàng đế đều đem giết sạch hết anh em của ông, không chừa một ai. Bạn có thể nói ông không có trí tuệ, không có phước báo chăng? Ông không hiểu Phật pháp sao? Hiểu! Hoàng đế nhà Thanh đều là tín đồ Phật giáo thuần thành, đều có rất nhiều Quốc sư hướng dẫn. Nghiệp lực thật không thể nghĩ bàn!

Chúng ta ngày nay trong thế pháp và Phật pháp kém xa so với quá khứ, không xem trọng giáo dục đạo nghĩa, phong tục phương Tây đã ngấm vào người chúng ta, đem truyền thống cổ xưa của chúng ta phá bỏ hết. Người Trung Quốc ngày trước, từ nhỏ được tiếp nhận giáo dục “Trung, Hiếu, Nhân, Ái, Tín, Nghĩa, Hòa, Bình”. Xã hội ngày trước nói đạo nghĩa, nói nghĩa khí, xã hội phương Tây ngày nay là nói lợi hại. Nói lợi hại thì đáng sợ, vừa có lợi thì lập tức đổi tâm, đạo nghĩa không còn. Việc này hiện tại gần như nơi nào chúng ta cũng đều có thể xem thấy, rõ ràng nhất là ở Mỹ có rất nhiều công ty, trong công ty này có rất nhiều nhân tài chuyên nghiệp, công ty khác biết được liền lôi kéo qua, họ sẽ cho rất nhiều đãi ngộ, thế là từ chức nơi này, đến nơi kia nhậm chức liền, thấy lợi liền quên nghĩa. Việc này Trung Quốc ngày trước không có, cho dù bạn đãi ngộ họ có cao hơn, họ cũng không thể thay đổi, người có tình cảm, người có đạo nghĩa, không thể nào làm như vậy, thế nhưng giáo dục của phương Tây cho rằng đó là việc rất bình thường. Ngày nay chúng ta thấy được đã quá nhiều, cũng thấy được rất bình thường, con người rất dễ dàng biến chất, rất dễ dàng đổi tâm, bạn thử nghĩ xem, xã hội này làm sao mà không loạn? Mọi người đều nhìn thấy lợi, đạo cùng nghĩa không còn.

Hiện tại nói đến chỗ này, chúng ta không thể không bội phục người Nhật Bản. Tôi đối với người Nhật Bản thật là bội phục năm vóc sát đất (tuy là ngày trước họ ức hiếp người quá đáng). Người Nhật Bản ở xã hội ngày nay còn có đạo nghĩa, tuy công ty rất là suy thoái nhưng công nhân không nhẫn tâm rời bỏ đi, họ vẫn phải hỗ trợ công ty, họ sẽ không bỏ chạy đi nơi khác (cái gốc này là văn hóa của Trung Quốc, họ còn có thể giữ gìn). Công nhân có việc không vừa lòng đối với ông chủ, đối với công ty thì kháng nghị lên, họ chỉ kháng nghị, họ không bãi công, trên đầu họ đeo một miếng vải trắng. Ông chủ xem thấy liền biết được họ có ý kiến rồi, thế là ông chủ vội vàng triệu tập hội nghị để giải quyết. Giải quyết rất ôn hòa, họ không bãi công. Không như ở nước ngoài, người ngoại quốc khi không vừa lòng thì lập tức bãi công. Vừa bãi công thì đôi bên đều bị tổn thất. Ngày nay chúng ta ở trong xã hội này còn có thể xem thấy một chút nghĩa khí. Ngoài Nhật Bản ra, các nơi khác không còn xem thấy. Loại đạo nghĩa này mới chân thật biết được tri ân báo ân. Thế nhưng giáo dục phương Tây ân nghĩa không có, họ không biết được cái gì là ân, không biết được cái gì là nghĩa thì làm sao có thể nói đến báo ân! Vậy thì hoàn toàn không thể nói đến. Giáo dục của Phật pháp tuy tốt đến như vậy, nếu như thiện căn, phước đức của họ không đủ, họ nghe rồi cũng tin tưởng, thế nhưng người khác nói vài câu thì họ lập tức liền không tin tưởng. Hiện tại ở thế gian này, trên Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tà sư nói pháp như Hằng hà sa”. Bạn không có trí tuệ cao độ, mê hoặc của năm dục sáu trần ở bên ngoài, nếu bạn có thể không động tâm, tôi thường hay nói cho đồng tu trong nội bộ chúng ta nghe, “bạn là Bồ Tát tái sanh”, bạn không phải là người phàm. Người phàm thì làm gì có thể không bị động tâm, làm gì mà không bị mê hoặc chứ? Bạn bị động tâm, bạn bị mê hoặc là hiện tượng bình thường. Thế xuất thế gian pháp đều là như vậy, bạn tiếp xúc được những cảnh giới này mà không động tâm, vậy thì bạn không phải là người bình thường, bạn không phải là người phàm, người phàm thì làm gì mà không bị động tâm! Bạn nhận được giáo dục hiện tại, xem thấy lối sống của xã hội hiện tại, thì tự nhiên bạn liền bị nó ảnh hưởng, tự nhiên bạn liền bị nó xếp đặt. Cho nên chỉ có một phương pháp, ở trên Kinh này nói Hiền Hộ, bạn phải hiểu được chính mình nên làm thế nào bảo hộ chính mình thành tựu đạo nghiệp ở ngay trong một đời này. Nhất định phải trải qua đời sống trí tuệ cao độ, quyết định không thể dùng cảm tình mà làm việc.

Vị thứ chín, Tịch Căn Bồ Tát

Chỉ có trí tuệ cao độ mới có thể vào được thiền định sâu. Vị Bồ Tát này đại biểu tịch diệt cảnh trí, là đại định mà trên quả địa Như Lai chứng được, là Thủ Lăng Nghiêm đại định mà trên Kinh Lăng Nghiêm nói, là Hoa Nghiêm Tam Muội mà trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói, Sư Tử Phấn Tốc Tam Muội là đại định của quả địa Như Lai.

“Căn” là nói sáu căn, “Tịch” là thanh tịnh tịch diệt. Định tịch diệt so với định của Vô Sanh Pháp Nhẫn còn sâu hơn. Chúng ta xem thấy trên Kinh Nhân Vương, Vô Sanh định thì đã rất sâu rồi, đây là Bồ Tát Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa chứng được. Bồ Tát Thất Địa chứng được là hạ phẩm vô sanh pháp nhẫn, Bát Địa là trung phẩm, Cửu Địa là thượng phẩm. Tịch Diệt định là Bồ Tát Pháp Vân Địa, Bồ Tát Thập Địa chứng được hạ phẩm, Bồ Tát Đẳng Giác là trung phẩm, quả địa Như Lai là thượng phẩm. Đương nhiên những Bồ Tát ở chỗ này đều là Đẳng Giác Bồ Tát tại gia, không phải là phàm phu, cho nên Chí Thiếu An trên Kinh Nhân Vương nói, Tịch Diệt định này của họ cũng là trung phẩm, thành Phật là thượng phẩm. Ngài là trung phẩm, đã đạt đến đỉnh cao nhất của Bồ Tát.

Định do đâu mà có? Định từ huệ mà có, bạn không có Diệu Trí Vô Thượng thì bạn làm sao có thể chứng được Tịch Diệt Cảnh Trí? Còn định cùng huệ là hỗ trợ lẫn nhau, chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này. Định có thể giúp đỡ huệ, huệ có thể giúp đỡ định. Huệ là nhìn thấu. Như thế nào thì gọi là nhìn thấu? Hiểu rõ chân tướng sự thật là nhìn thấu. Định là bạn ở trong hiện tượng thực tế, bạn có thể như như bất động, chính là trên Kinh Kim Cang đã nói: “Bất thủ ư tướng như như bất động”. Bất thủ ư tướng là không chấp tướng. Ngoài không chấp tướng, trong không động tâm, đó là thiền định. Công phu thiền định của bạn sâu, giúp cho bạn nhìn thấu, cũng chính là chân tướng sự thật càng ngày càng rõ ràng, càng ngày càng tường tận, càng ngày càng nhìn thấy được thấu triệt. Càng thấy được thấu triệt thì sức định của bạn sẽ càng sâu.

Phàm phu thành Phật, từ trên nguyên lý mà nói, chính là định cùng huệ. Bình thường chúng ta nói định – huệ thì mọi người khó hiểu, nghĩ đến định – huệ này, đại khái không phải là phàm phu có thể học, làm cho họ cảm thấy quá sâu, quá thần bí, cho nên chúng ta đổi cách nói khác là “nhìn thấu, buông bỏ” thì mọi người dễ hiểu. Nhìn thấu là huệ, buông bỏ chính là định. Nhìn thấu chính là hiểu rõ chân tướng sự thật, buông bỏ là buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Đây là bao gồm tất cả căn gốc của nghiệp tập phiền não. Bạn xem, Thiền tông thường nói tu từ căn bản, Giáo Hạ cũng không ngoại lệ, chúng ta phải tu từ căn bản. Căn bản là gì vậy? Căn bản chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Phải đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông bỏ, bạn liền thành Bồ Tát, liền thành Phật. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mỗi ngày đang thêm lớn thì thật đáng sợ, thêm lớn những thứ này thì không thể không tạo nghiệp, tạo nghiệp thì không thể không thọ báo. Việc này chúng ta không thể không biết. Trong Kinh điển Phật hết lời khuyên bảo chúng ta, chúng ta không thể xem như trò đùa, phải nghĩ lại, phải đi làm, phải chăm chỉ nỗ lực mà làm.

Phật răn dạy người mới học giới luật rất tinh nghiêm, vì sao vậy? Chúng ta vẫn chưa hiểu chuyện, cũng giống như trẻ nhỏ vậy, trẻ nhỏ ba-bốn tuổi không biết chuyện, vào nhà trẻ, cô giáo nhất định phải dạy cho chúng rất nhiều qui củ, phải ở bên cạnh chúng xem chừng, khiến cho chúng tập thành thói quen, không phạm lỗi lầm, bồi dưỡng căn cơ của chúng. Phật pháp cũng không ngoại lệ, người sơ học nhất định phải vâng giữ lời răn dạy của Phật. Sau này bạn có định, có trí huệ rồi thì tự nhiên bạn liền có thể tự làm chủ, Phật không cần phải chăm lo cho bạn đến như vậy.

Trong danh hiệu của những Bồ Tát này hàm chứa nghĩa lý vô lượng vô biên, không có cùng tận. Mười sáu vị Bồ Tát đều là tấm gương tốt cho thế gian chúng ta. Chúng ta học Phật thì phải học ở các Ngài, hướng đến các Ngài học tập. Vậy ý nghĩa danh hiệu của các Bồ Tát, bạn xem không hiểu thì phải làm sao? Kinh văn phía sau có nói những ý nghĩa này rồi. Danh hiệu là tổng cương lĩnh của toàn Kinh, về sau Kinh đọc quen thuộc rồi, vừa nhìn thấy danh hiệu Bồ Tát này chính mình liền nắm lấy được cương lĩnh, liền biết được ngay trong cuộc sống thường ngày phải trải qua ngày tháng như thế nào, làm việc ra sao, đối nhân, xử thế, tiếp vật sao cho đúng, tránh được tất cả lỗi lầm, thành tựu vô lượng vô biên công đức thù thắng. Đó là chân thật trang nghiêm tự thân, trang nghiêm hoàn cảnh đời sống của chính mình, như Tỳ Lô Giá Na Như Lai trong Kinh Hoa Nghiêm, như thế giới Tây Phương Cực Lạc trên Kinh A Di Đà đã nói. Đó đều là quả báo của chính mình. Hiểu được tu nhân như thế nào thì có quả báo như thế đó, “nhân duyên quả báo không sót mảy trần”. Cho nên khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta, chúng ta phải có trách nhiệm đối với xã hội. Chúng ta khởi lên một ý niệm, toàn thể xã hội đều sẽ học theo ta như thế thì xã hội này có được an định hay không? Đó là ảnh hưởng chánh diện, còn ảnh hưởng phụ nữa thì chúng ta không thể không biết.

Giáo huấn của cổ thánh tiên hiền danh ngôn chí lý. Giáo huấn của Phật pháp cùng giáo huấn của thế gian không giống nhau. Thí dụ nói, pháp thế gian là “thù giết cha không đội trời chung”, đó là pháp thế gian, việc này nhất định phải báo thù, bạn không báo thù người trong xã hội sẽ nói bạn bất hiếu. Còn giáo dục của thánh nhân thế gian thì bạn báo thù là không sai, việc ở thế gian pháp là việc đương nhiên, nhưng nếu như con người này đang làm quan, đang tại chức thì bạn không thể báo thù. Vì sao không thể báo thù vậy? Bởi vì hiện tại họ đang là công chức, là vì đại chúng xã hội phục vụ, nếu bạn báo thù thì xã hội sẽ không có người phục vụ, cho nên thù này của bạn không thể báo. Đợi lúc nào thì báo vậy? Đợi ngày nào mà họ không còn tại chức nữa, lúc đó thì bạn mới báo thù được, vì sao vậy? Họ đã không còn vì xã hội đại chúng phục vụ nữa, chúng ta mới đến nói việc riêng. Qua đó có thể thấy được, mỗi niệm vì xã hội, mỗi niệm vì lợi ích của đại chúng, đó là thánh nhân thế gian dạy mọi người. Phật pháp dạy thế nào vậy? Phật pháp dạy nhất định không được báo thù, vì sao vậy? Vì ngay đời này bạn báo thù họ, đời sau họ lại báo thù lại bạn, đời đời kiếp kiếp báo tới báo lui không hề ngừng dứt, hơn nữa oán cừu này càng kết càng sâu. Cho nên, Phật dạy chúng ta không nên báo thù. Phật cũng biểu diễn cho chúng ta xem, các vị đã đọc được câu chuyện về Ca Lợi vương cắt xẻo thân thể trên Kinh Kim Cang (trên Kinh Kim Cang chỉ là nêu sơ qua thôi, ở trong Kinh Đại Niết Bàn, câu chuyện này ghi chép lại tỉ mỉ một số nhân quả trong đó). Vị Nhẫn Nhục tiên nhân đó chính là Thích Ca Mâu Ni Phật khi chưa thành Phật, khi còn làm Bồ Tát, Ngài tu Nhẫn Nhục Ba La Mật.

Ca Lợi vương (Ca Lợi là tiếng phạn, dịch thành ý nghĩa Trung Quốc là bạo quân, hôn quân vô đạo, không nói lý) gặp được một người tu hành trên núi, ông đem Ngài xử tử lăng trì (lăng trì là dùng dao nhỏ cắt từng miếng từng miếng thịt trên thân xuống). Xử tử như vậy nhưng Nhẫn Nhục tiên nhân có ý niệm báo thù hay không? Không có, một chút oán hận cũng không có. Đó là Phật dạy cho chúng ta, không có một chút oán hận, không hề có tâm báo thù. Vừa có tâm báo thù, chúng ta là phàm phu, chúng ta quyết định đọa lạc, bạn không hề nghe lời của Phật, bạn không rõ giáo lý. Không hề báo thù, oan gia nên giải không nên kết. Họ báo thù đối với ta, ta hiểu rõ, tất cả đều nghĩ là đang trả nợ, cái kết của ta từ đây coi như trả xong, đời sau gặp lại hân hoan vui mừng, kết đã giải rồi mà. Không kết oán thù với tất cả mọi người, tất cả đều nghĩ là đang trả nợ, bạn xem cái tâm này của ta thanh tịnh biết bao, rất tự tại, mãi mãi giữ gìn Thanh tịnh – Bình đẳng – Giác. Đó là tu nguyên tắc của Tịch Căn, thành tựu pháp môn bất nhị của Tịch Căn. Người khác hủy báng ta, nghe rồi ta hoan hỉ; người khác nhục mạ ta, ta hoan hỉ tiếp nhận; người khác hãm hại ta, ta cũng hoan hỉ tiếp nhận. Đại Sư Ấn Quang nói: “Hại bạn đến nhà tan người chết, hại bạn đến ngũ mã phanh thây đều cũng không oán trời trách người, quyết không oán hận người đã hại ta”. Không oán hận, phải xem việc này như thế nào vậy? Chính trong mạng chúng ta phải gánh chịu việc này thì tâm liền định. Đem tâm như vậy niệm Phật thì đều được vãng sanh, bị hãm hại mà chết vẫn là phải vãng sanh, vì sao vậy? Phật Bồ Tát tôn kính bạn, thiên địa quỷ thần tôn kính bạn. Đây là Phật nói, chúng ta phải học Phật. Thánh nhân xuất thế gian cùng thánh nhân thế gian không giống nhau. Thánh nhân thế gian không rời khỏi tình chấp, còn thánh nhân xuất thế gian không còn tình chấp nữa, hoàn toàn đem tình chuyển biến thành trí tuệ vô thượng, cho nên đời sống của họ là trí tuệ cao độ, định lực cao độ. Tịch Căn hiển thị định lực cao độ.

Thực tế mà nói, Phật pháp Đại thừa nói đến chỗ này đã tương đối viên mãn, phía sau không cần nói nữa, đã đến được cảnh giới Như Lai quả địa. Nếu như chúng ta nói phước huệ, thì Trí Thượng là đại biểu trí tuệ, Tịch Căn là đại biểu phước. Các vị phải nên biết, định mới là phước chân thật, tâm thanh tịnh là đại phước báo. Vì sao phía sau còn có mấy vị Bồ Tát nữa? Thực tế mà nói là cần phải có, vì một vị Bồ Tát thông thường muốn đạt đến được cảnh giới như vầy không phải là việc dễ dàng, cho dù đạt đến được cảnh giới này cũng rất khó viên mãn. Chúng ta xem thấy rõ ràng trong Kinh Hoa Nghiêm, Trí Thượng cùng Tịch Căn Pháp Thân Đại Sĩ đều đã chứng được, Viên Giáo Sơ Trụ đã chứng được, phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân. Trí tuệ phước đức ở trong cái nhìn của chúng ta, từ trong mười pháp giới mà xem, họ đều đạt đến được viên mãn, thế nhưng viên mãn mà không phải cứu cánh viên mãn. Cho nên ở thế giới Hoa Tạng, ở trong Pháp Giới Nhất Chân còn có Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, còn có 41 ngôi thứ. Bốn mươi mốt ngôi thứ này phải từ từ tu đến cứu cánh viên mãn, phải mất bao nhiêu thời gian? Trên Kinh Phật nói là “ba A Tăng kỳ kiếp”, rất dài, không đơn giản. Pháp Thân Đại Sĩ tu hành còn phải trải qua ba A Tăng kỳ kiếp, Phật ở ngay chỗ này hiện rõ đại từ đại bi, dạy những Pháp Thân Đại Sĩ này lập tức thành Phật, hà tất phải lãng phí nhiều thời gian đến như vậy? Làm thế nào để lập tức thành Phật? Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc! Cho nên ở trên hội Hoa Nghiêm, sau cùng Bồ Tát Phổ Hiền mười đại nguyện vương cầu sanh Cực Lạc chính là mấy vị Bồ Tát phía sau biểu thị ra “cầu sanh Cực Lạc”. Pháp Thân Đại Sĩ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là vãng sanh thượng thượng phẩm cõi Thật Báo. Đến thượng phẩm cõi Thật Báo thì liền thành tựu, chân thật là đem ba A Tăng kỳ kiếp rút ngắn lại thành một niệm. Bạn nói xem, việc này thù thắng dường nào, thật là không thể nghĩ bàn.

Phía sau là Bồ Tát Tín Huệ, Bồ Tát Nguyện Huệ và Bồ Tát Hương Tượng, ba vị Bồ Tát này đại biểu ba điều kiện tu hành của Tịnh tông là “Tín-Nguyện-Hạnh”.

Vị thứ mười, Tín Huệ Bồ Tát

Vị thứ mười một, Nguyện Huệ Bồ Tát

Vị thứ mười hai, Hương Tượng Bồ Tát

Bạn phải thật tin tưởng. Tin tưởng cái gì? Tin tưởng A Di Đà Phật, tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta. Cách tin phải thế nào vậy? Làm thế nào cụ thể thực tiễn? Bộ Kinh Vô Lượng Thọ này chính là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta thế giới Tây Phương Cực Lạc, bộ Kinh Vô Lượng Thọ này chính là A Di Đà Phật nói qua y chánh trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, ngay trong đó có Tánh, có Tướng, có Lý, có Sự, có Nhân, có Quả. Chúng ta thảy đều tin tưởng, mỗi câu mỗi chữ đều tin sâu không nghi, vậy mới gọi là tín. Nếu không phải tin được như vậy, người niệm Phật tuy nhiều, người tu hành tuy nhiều, nhưng người vãng sanh thì không nhiều. Do nguyên nhân gì vậy? Vì họ chưa thật tin, cái tin đó của họ, nói lời thành thật, không phải lời khách sáo, là mê tín. Mê tín có thể vãng sanh hay không? Mê tín nếu như thật mê thì có thể vãng sanh, giả mê thì không thể vãng sanh. Thật mê là thế nào? Thật mê họ không có hai niệm, bạn bảo họ niệm A Di Đà Phật thì trong lòng họ chỉ có A Di Đà Phật, niệm Phật hai giờ đến sáu giờ, một ngày từ sớm đến tối chỉ A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra, một vọng niệm khác cũng không có, vậy thì được, vậy thì họ có thể vãng sanh. Họ vãng sanh phẩm vị còn tương đối cao. Thế nào gọi là không thật tin, không phải thật mê tín? Tuy tin tưởng, nhưng một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng xằng bậy; còn có rất nhiều phân biệt, chấp trước; còn có thị phi nhân ngã; còn có tham-sân-si-mạn xen tạp trong đó, sự mê tín đó không thể vãng sanh. Cho nên các vị phải biết, 100% người vãng sanh nhất định phải tin tưởng từng câu từng chữ trong bộ Kinh này. Chúng ta phải đem từng câu từng chữ trong bộ Kinh này thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Lần này tôi ở đây diễn giảng không giới hạn thời gian, bộ Kinh này giảng hai năm, ba năm không hề gì. Các vị cùng nhau đến nghe, không nhất định phải nghe hết, bạn nghe một lần có thọ dụng một lần. Một lần hiểu rồi, một lần ghi nhớ rồi, một lần có thể phụng hành thì cả đời bạn thọ dụng không cùng tận, huống hồ là mỗi lần giảng bạn đều đến nghe. Nếu mỗi kỳ giảng đều đến nghe thì lợi ích vô biên, đó cũng đều là do thời tiết nhân duyên mà được. Đồng tu phương này chúng ta có duyên đặc biệt thù thắng. Tôi không hề nghĩ đến là tôi đến Singapore cùng mọi người tỉ mỉ giảng qua một lần, duyên quá thù thắng! Tôi cũng không nghĩ rằng mình có thể giảng được tỉ mỉ đến như vậy. Đây là do Tam Bảo gia trì, việc này không phải sức người. Các vị ở nơi đây nghe được hoan hỉ cũng là được Tam Bảo gia trì; không có Tam Bảo gia trì, bạn nghe cũng không hiểu. Bạn chân thật nghe hiểu, nghe thấu suốt là do Phật Bồ Tát gia trì, có thể thấy được chúng ta cùng thế giới Tây Phương, cùng A Di Đà Phật có duyên này rất sâu. Chỉ cần đem thiện căn, phước đức vô lượng kiếp của chính mình đào tìm ra được, thì ngay đời này chúng ta liền có thể vĩnh thoát luân hồi, liền có thể thành Phật, làm Tổ, tham gia câu lạc bộ A Di Đà Phật, chúng ta đến làm hội viên, bạn nói xem tự tại dường nào, hạnh phúc biết bao. Cho nên, “Tín” không phải là một sự đơn giản.

Năm xưa, sau khi học Phật được bảy năm, tôi mới xuất gia. Khi tôi vừa xuất gia thì liền đến Phật học viện giảng Kinh. Sau hai năm giảng Kinh, tôi mới thọ giới. Khi thọ giới rồi tôi đến Đài Trung để lạy thầy tôi – lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi đến bái kiến thầy. Vừa thấy mặt tôi, thầy liền chỉ vào tôi nói: “Ông phải tin Phật!”. Tôi ngẩn người ra, vì sao thầy chỉ nói “ông phải Tin Phật” vậy? Sau đó tôi ngồi xuống, thầy giải thích với tôi: “Có rất nhiều người xuất gia, tuổi trẻ xuất gia đến bảy, tám mươi tuổi rồi cũng chưa tin Phật. Họ cũng biết giảng Kinh, giảng cũng được hoa trời rơi rụng, vì sao mà không tin Phật? Những gì Phật nói trên Kinh một chữ họ cũng không làm được, đó không phải là tin Phật”. Không tin Phật thì không có tín, tín không có thì nguyện-hạnh cũng không có, làm sao có thể vãng sanh? Cho nên Ngài nói “việc này vô cùng quan trọng”, lão sư đặc biệt nhắc nhở, cảnh sách, nhất định phải tin tưởng.

Tín thì thật có thể lý giải, có thể thông suốt, có thể y giáo phụng hành, vậy mới gọi là Tín. Hay nói cách khác, Tín-Nguyện-Hạnh là một mà ba, ba mà một. Bạn nói bạn có Tín, thế nhưng bạn không có Nguyện, không có Hạnh, thì cái Tín đó là giả, không phải thật. Bạn nói bạn có Nguyện, có Nguyện mà không có Tín, không có Hạnh, thì cái Nguyện của bạn là giả. Hạnh, mỗi ngày bạn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật… nhưng bạn không có Tín, không có Nguyện, thì bạn niệm A Di Đà Phật cũng là giả. Trong Tín nhất định phải có Nguyện-Hạnh, trong Nguyện nhất định có Tín-Hạnh, trong Hạnh nhất định phải có Tín-Nguyện, “một mà ba, ba mà một”, cái đảnh ba chân, thiếu một cái thì ngã đổ. Việc này chúng ta nhất định phải hiểu, nhất định phải nỗ lực mà làm, đối với từng câu từng chữ trên Kinh này thâm tín không hoài nghi, quyết định không dám trái phạm. Trên Kinh Phật dạy chúng ta làm, chúng ta cố gắng nỗ lực mà làm; Phật nói những gì không nên làm, chúng ta quyết định không nên làm, vậy chúng ta mới được gọi là “chân Tín, chân Nguyện, chân Hạnh”, đó mới là học trò tốt của A Di Đà Phật, liền có thể được A Di Đà Phật hộ niệm. A Di Đà Phật hộ niệm bạn, bạn phải nên biết là tất cả chư Phật đều rất tôn kính, cùng đồng ngưỡng mộ A Di Đà Phật, Ngài là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”, hay nói cách khác, bạn là học trò thật, đệ tử thật của A Di Đà Phật, bạn tự nhiên liền được tất cả chư Phật hộ niệm, vậy còn phải lo lắng gì chứ? Còn gì mà không chịu buông bỏ? Tiền tài của chúng ta, của cải của chúng ta, nhà đất của chúng ta bị người khác xâm chiếm rồi, bị người khác đoạt đi rồi, bạn có lo lắng hay không? Người chân thật Tín-Nguyện-Hạnh thì không lo lắng. Phật bảo chúng ta buông bỏ mà, đó là chính ngay lúc để buông bỏ. Khi chưa có người đến đoạt lấy, ta thật là không thể buông bỏ; khi người vừa đoạt lấy, vậy thì quá tốt, một lòng niệm Phật không hề có việc gì hết, đó chẳng phải là tăng thượng duyên tốt hay sao? Họ đến giúp ta một tay, nâng ta cao lên thêm một bước, ta muốn đi lên mà vẫn không thể đi, họ đưa một tay đẩy chúng ta lên trên. Không những không hận người đoạt lấy những của cải của ta, mà trái lại còn cảm kích, cảm ân. Không có họ, ta rất khó xả. Họ làm như vậy, ta không xả không được. Khi ta vừa xả ra thì gần thêm một bước với Phật A Di Đà, bạn nói xem tự tại dường nào, làm gì có chuyện không hoan hỉ chứ? Bạn nghĩ lại xem, “mọi thứ không thể đem, chỉ có nghiệp theo mình”, khi đến lúc lâm chung thì có thứ gì có thể mang đi được đâu? Không mang đi được thứ gì, cho nên khi đến lúc lâm chung bạn phải xả, hiện tại xả được sạch trơn không phải càng tốt hơn hay sao?

Ở trong Kinh điển, Phật nói với chúng ta, đồ vật của chúng ta bị kẻ khác cướp đi, họ cướp đi thì là của họ, ta không thể lấy nó lại được, vì nếu bạn lấy trở về, thì bạn đã phạm giới trộm. Họ cướp lấy của bạn là họ ăn trộm, họ đã phạm giới trộm, nếu bạn đi tìm nó trở lại thì bạn lại phạm giới trộm, cho nên sau khi xả hết rồi thì không nên nghĩ nữa. Nếu như họ tặng lại cho bạn thì đó là bố thí, còn họ đoạt lấy rồi chính là tài vật của họ. Họ trộm thì họ có nhân quả của họ, nếu như chúng ta lấy trở lại, chúng ta cũng phạm giới trộm, chúng ta cũng phải đọa lạc. Trong đây lý cùng sự tương đối vi tế, chúng ta không thể không biết. Họ cướp lấy đồ của tôi đi, vì sao tôi không thể giựt nó lại chứ? Người thế gian đều cho đó là hợp lý, thế nhưng Phật nói không hợp lý. Bạn tỉ mỉ mà suy xét xem, Phật nói có đạo lý, nhất định phải tuân thủ giáo huấn của Phật Đà.

Chúng ta sống ở thế gian này, thực tế mà nói rất là ngắn ngủi. Lần này tôi từ Úc châu trở lại, buổi tối hôm đó, ở Nha Long bị cúp điện khoảng hai-ba tiếng đồng hồ. Nơi cửa tam quan của chúng ta có ba cây Tiên Nhân Chưởng nở ra hai mươi mấy đóa hoa. Việc này trước đây chúng tôi chưa từng thấy qua, Tiên Nhân Chưởng nở hoa là rất hiếm thấy. Hoa nở ra là màu trắng, giống như hoa sen vậy. Tôi bảo pháp sư Ngộ Hạnh chụp hình, thầy đã chụp hai mươi mấy tấm. Sau khi chụp hình, rửa ra thì không hề thấy có hoa. Tôi bảo mọi người xem, các vị xem rồi có chỗ ngộ nào không? Sau khi mọi người xem xong, dường như đều không có giác ngộ, vậy thì bạn không hề thấy được gì. Tôi nhìn thấy hoa này có sự cảnh giác cao độ, tôi có chỗ ngộ, đó là ngộ vạn pháp vô thường, sát na sanh diệt. Bạn xem thấy tấm phim chụp này về sau vĩnh viễn sẽ không còn thấy nữa. Lần này chính là như vậy, chính ngay lúc ấn máy chụp hình, ngay sát na đó, ta mới biết được sinh mạng ngắn ngủi đến như vậy, vì sao phải tạo nghiệp? Sinh mạng chúng sanh chúng ta chính là một sát na đó. Sát na, sát na, chúng ta gọi là tướng tiếp nối, như trên Kinh Kim Cang nói: “Như sương cũng như chớp”, như chớp là nói chân tướng, như sương là nói tướng tiếp nối, cho nên có thứ nào mà không đang nói pháp chứ? Tiên Nhân Chưởng nở hoa, nói pháp cho chúng ta; nói cho chúng ta nghe “vạn pháp vô thường, như sương cũng như chớp”, chẳng phải là đang nói Kinh Kim Cang cho chúng ta hay sao? Chúng tôi xem thấy là Kinh Kim Cang Bát Nhã, các vị ở nơi đó xem, tâm luôn là nghĩ vớ nghĩ vẫn. Học Phật cùng không học Phật khác nhau chỗ này. Bạn có thể thâm nhập như vậy, bạn mới biết được sáu căn chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần, cảnh giới nào không là “Đại Phương Quảng” chứ? Cảnh giới nào không phải là “Phật Hoa Nghiêm”? Cảnh giới nào không phải là “Vô Lượng Thọ”? Cảnh giới nào không phải là Thanh tịnh-Bình đẳng-Giác? Tất cả đều ngay trước mắt, chỉ do bạn không nhận ra. Nếu bạn nhận ra, bạn mới hiểu được những gì trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói. Chư Phật Như Lai giảng Kinh nói pháp, trần thuyết, sát thuyết từ trước đến giờ chưa từng gián đoạn, tận hư không khắp pháp giới, bất cứ lúc nào nơi nào cũng đều đang nói pháp. Tất cả pháp ở đâu vậy? Tất cả pháp chính là ngay trong sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần. Tiếc là chúng ta không nhìn thấy được. Nhắc nhở cho bạn giống như tia chớp vậy, sáng lên một tí, chớp lên một cái rồi thì không còn nữa, lại tối đen, lại mê muội. Bạn làm sao gìn giữ một niệm sáng suốt đó của bạn, đó gọi là công phu; giữ gìn một niệm trí tuệ, giữ gìn một niệm cảnh giác, đó chính là trí tuệ cao độ. Cho nên trong Tín-Nguyện-Hạnh, Nguyện của chúng ta là nhất định phải sanh Tây Phương Tịnh Độ. Điều này là vô cùng quan trọng, vì sao vậy? Không sanh Tây Phương Tịnh Độ, cho dù ra khỏi mười pháp giới chứng được Pháp Thân Đại Sĩ, còn phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp mới có thể viên thành Phật đạo, không cần nói thoát khỏi mười pháp giới không dễ dàng, mà thoát khỏi sáu cõi cũng đã không dễ dàng, nói thêm một điều hơi khó nghe, các vị nhất định phải nên biết, thoát khỏi ba đường ác cũng đã không dễ dàng.

Ngày nay chúng ta xem thấy rất đông chúng sanh tạo tội nghiệp ba đường ác. Ba đường ác là tội nghiệp gì? Ở trên Kinh Đại Tiểu thừa, Phật thường nói (gần như mỗi bộ Kinh đều nói), Phật mỗi ngày đều nhắc nhở chúng ta “năm giới mười thiện”.

“Thân nghiệp” là sát sanh, trộm cắp, tà dâm (trong năm giới có “uống rượu”).

“Khẩu nghiệp” là “vọng ngữ” (vọng ngữ là ức hiếp chúng sanh, không nói lời thành thật), “nói hai lời” (hai lời là khiêu khích phải quấy), “ỷ ngữ” là lời nói bóng bẩy lừa gạt chúng sanh, “ác khẩu” là lời nói thô lỗ, mắng người.

“Ý nghiệp” thì có tham, sân, si.

Bạn tạo ra mười ác nghiệp này, quả báo sẽ ở nơi ba đường khổ. Hiện tại tuy là chưa đọa vào trong ba đường, nhưng trong ba đường đã ghi chú rồi, đã đánh dấu rồi, không cần đợi lâu thì phải đi thọ báo thôi. Ai không đọa ba đường? Người không tạo mười ác nghiệp thì sẽ không đọa ba đường. Người mà không tạo mười ác nghiệp, trái lại còn tu mười thiện nghịêp là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không hai lời, không ác khẩu, không thêu dệt, không tham, không sân, không si, thượng phẩm mười thiện thì sanh lên trời; trung phẩm mười thiện là phước báo ở đời sau, đời sau vẫn là được thân người, hưởng phước báo nhân gian. Ngày nay, chúng ta thấy hiện tại người hưởng phước thế gian này đều là do quá khứ có công tu năm giới mười thiện, phú quý này của họ là phước báo của họ.

Nhân duyên quả báo chân thật bất hư, không lọt mảy trần, trong tất cả Kinh Phật đều nói như vậy. Nếu chúng ta không thể chăm chỉ làm đúng như vậy, đó là bạn tự cam đọa lạc, và như vậy thì tín-nguyện-hạnh của bạn thảy đều không có. Bạn không có tín-nguyện-hạnh thì sao được chứ? “Hạnh” chính là thành thật niệm Phật. Khi không có việc gì thì trong lòng chúng ta chỉ có một câu Phật hiệu, nhất định không gián đoạn. Điểm này rất quan trọng.

Người niệm Phật không nên sợ chết, sợ chết thì tín-nguyện-hạnh của bạn toàn là giả. Mục đích của người niệm Phật chúng ta chính là đến thế giới Cực Lạc, chính là thân cận A Di Đà Phật, cho nên đi càng sớm càng tốt, tại vì sao bạn sợ? Vừa muốn đi lại vừa lo sợ thì thành ra thứ gì chứ? Làm gì là thật? Không được lo sợ! Đi càng sớm càng tốt, thế gian này không có gì đáng để lưu luyến, đời ác năm trược, ở thế gian này một ngày là chịu thêm tội một ngày, vì sao không sớm một ngày đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để hưởng phước, thân cận Phật A Di Đà? Trên Kinh nói được rất hay, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì “Thanh hư chi thân, vô cực chi thể”. Không phải giống như cái thân ô uế như thế này, một ngày không tắm gội, trong lỗ lông tóc đều tiết ra mùi hôi thối, có cái gì đáng được yêu quý đâu? Biết được cái thân này bất tịnh, không sạch sẽ, sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có thân tướng giống y như Phật, đều là thân tử ma sắc vàng thật. Tại sao không chịu đổi cái thân này, tại sao còn lưu luyến cái túi da thối này chứ? Bạn còn lưu luyến cái túi da thối này thì ba chữ tín-nguyện-hạnh của bạn thảy đều không có, đều là giả. Cho nên, người chân thật niệm Phật thường hay nghĩ cái chết, không muốn sống nhiều hơn ở thế gian này nữa.

Niệm Phật Đường của Đại Sư Ấn Quang đáng để cho chúng ta học tập. Đại Sư Ấn Quang Ngài tu hành, trong gian phòng của Ngài không có bất cứ thứ gì, chỉ có miếng che thay đồ, giặt quần áo, không có thứ gì khác. Trong Phật đường nhỏ của Ngài có một tôn tượng Phật, một quyển Kinh A Di Đà, phía sau tượng Phật viết một chữ “Chết” thật to. Đại Sư Ngài dạy cho chúng ta làm thế nào tu tín-nguyện-hạnh, làm thế nào ngay trong một đời này nhất định vãng sanh. Quyết định phải học phương pháp của Ngài, chúng ta không sợ chết, chúng ta mỗi ngày nghĩ chết. Người thế gian cho rằng chết là rất đáng sợ, còn chúng ta chết rồi thì vãng sanh. Cái chết của chúng ta, dùng lời hiện tại mà nói, là di dân. Chúng ta thoát khỏi thế giới Ta Bà, di dân đến thế giới Cực Lạc, hân hoan vui thích mà đi. Chúng ta xả bỏ cái thân ô uế này, được thân Kim Cang bất hoại; xả bỏ hoàn cảnh đời sống xấu ác này của chúng ta, đến Tây Phương Cực Lạc trải qua hoàn cảnh thanh tịnh, vậy mới là phát nguyện, vậy mới gọi là thật tu hành. Mỗi tối lên giường nằm ngủ liền nghĩ Phật đến tiếp dẫn ta, mắt nhìn vào vách tường xem thử Phật có đến hay không. Ngày ngày đều nghĩ Phật đến, mỗi giờ đều nghĩ Phật đến. Buổi trưa ngủ trưa, nghỉ ngơi cũng nghĩ Phật đến, xem thử Phật có đến hay chưa, hy vọng, trông mong vào Ngài, mong muốn Ngài đến sớm hơn một ngày. Ngày ngày ta đều trông ngóng thì cuối cùng cũng sẽ trông ngóng ra Phật. Hiện tại Phật chưa đến là vì chúng ta còn có chút việc chưa xong. Việc gì vậy? Phải đem Kinh này giảng cho xong, giúp đỡ chúng sanh nhiều hơn một chút, chúng ta đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc và dẫn thêm được vài người cùng đi. Ngày nay chúng ta đang làm việc này, chính là dẫn thêm một số người đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Công việc này có ý nghĩa, các công việc khác không có ý nghĩa.

Phía sau “tín” có “huệ”, phía sau “nguyện” cũng có “huệ”. Tín mà không có trí tuệ thì không phải chánh tín, trong tín có tà tín, tư tưởng kiến giải của chúng ta có sai biệt. Nguyện cũng phải có huệ, nguyện mà không có huệ thì không phải thật nguyện. “Tin sâu, Nguyện thiết”. Huệ thực tiễn thì thực tiễn ngay ở trong bộ Kinh Vô Lượng Thọ này. Chúng ta đọc tụng, lý giải, y giáo phụng hành thì huệ của chúng ta liền đầy đủ.

“Hương Tượng” là đại biểu cho “Hạnh”. Trong chú giải của người xưa, Hương Tượng là khí lực của nó rất lớn. Thời xưa khi khoa học chưa phát triển, vận chuyển đều nhờ vào động vật. Trong các động vật, động vật có thể kéo nặng, sức mạnh rất lớn là đại tượng (voi lớn). Sức mạnh của “tượng” mạnh hơn rất nhiều so với trâu ngựa, những vật mà trâu ngựa kéo không nổi thì tượng có thể kéo, cho nên tượng là đại biểu cho sức mạnh. Chúng ta dùng nó để biểu thị cho nguyện-hạnh, nguyện-hạnh có lực, nguyện-hạnh đại lực của chúng ta vô biên. Đó là ba điều kiện tu hành của Tịnh Độ. Ba điều kiện này rất cần thiết, thiếu đi một điều kiện thì cũng không được, nhất định phải đầy đủ viên mãn. Đầy đủ tín-nguyện-hạnh thì bạn nhất định vãng sanh.

Vị thứ mười ba, Bảo Anh Bồ Tát

“Anh” là tinh hoa. “Bảo Anh” chính là tinh hoa ở trong “Bảo”, đại biểu Di Đà nguyện hải. Tất cả chư Phật Bồ Tát phát ra đại nguyện là lấy nguyện của Phật A Di Đà làm tinh hoa nhất, làm tinh anh nhất, cho nên Bồ Tát Bảo Anh biểu thị ý nghĩa này. Đây cũng chính là nói, bạn đầy đủ Tin sâu, Nguyện thiết, thành thật niệm Phật, thì bạn nhất định vào biển nguyện Di Đà. “Bảo Anh” chỗ này là đại biểu vào biển nguyện Di Đà, bạn thành tựu đại viên mãn. Bồ Tát ở ngay đây chẳng phải là đã thọ ký “vãng sanh làm Phật”cho mọi người chúng ta hay sao? Loại thọ ký này, không luận là Hiển giáo, Mật giáo, bao gồm tất cả thọ ký đều không có được sự thù thắng này. Kinh văn phía sau còn rõ ràng nói với chúng ta.

Vị thứ mười bốn, Trung Trụ Bồ Tát

Bồ Tát Trung Trụ, Bồ Tát Chế Hạnh, Bồ Tát Giải Thoát, ba vị Bồ Tát này lại quay đầu lại. Chúng ta mong cầu vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham dự đại pháp hội của Phật A Di Đà. Di Đà nguyện hải là pháp hội của Phật A Di Đà, câu lạc bộ của Phật A Di Đà. Chúng ta hiểu rõ những đạo lý này thì sẽ nắm vững cương lĩnh tu hành thế nào. Việc này không sai, thế nhưng hiện tại chúng ta vẫn chưa đi, thân thể vẫn còn ở thế gian này, vậy thì chúng ta phải sinh hoạt ra sao, phải làm việc thế nào, làm thế nào đối nhân xử thế tiếp vật? Phải tương ưng với lý luận, cảnh giới trong Kinh, không được trái phạm. Điều này là vô cùng quan trọng. Hay nói cách khác, hiện tại chúng ta chưa đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta cũng phải trải qua đời sống giống như các thượng thiện nhân của thế giới Tây Phương Cực Lạc thì mới tương ưng. Cho nên, Phật ở nơi đây dùng Bồ Tát Trung Trụ để biểu thị, tâm của chúng ta phải ở nơi trung đạo. Trung đạo thì không có tâm thiên lệch, tất cả đều phải nắm được trung, nói đơn giản là cái trung này không thiên vào “không”, cũng không thiên vào nơi “có”; không thiên vào “chánh”, cũng không thiên vào “tà”, mà phải đi trung đạo. Những chân – giả, tà – chánh, thiện – ác, phải – quấy đều là nói hai bên, Phật dạy chúng ta phải đi vào trung đạo, đó chính là biểu hiện đời sống trí tuệ cao đẳng. Chánh pháp chúng ta phải tiếp cận, tà pháp chúng ta cũng không thể bài trừ, chúng ta cũng hy vọng “tà” có thể quay về đường “chánh”, đó chính là công đức của chúng ta, trí tuệ của chúng ta. Bạn đã phát tâm, nhưng không thể làm cho “tà” quay về “chánh”, tâm có thừa mà sức không đủ, vậy công đức của bạn cũng đã hoàn thành, như trên Kinh Lăng Nghiêm Phật đã nói: “Phát ý viên thành thì viên mãn công đức”. Bạn chân thật đã phát tâm muốn giúp cho những người đã bước vào đường tà hướng về đường chánh, thế nhưng bạn không làm được, không phải bạn không có tâm, vậy thì được rồi. Cho nên tất cả phải biết được dùng “trung đạo”.

Chúng ta lại đem sự tu hành cùng đời sống kết thành một mảng, chính là “tịnh niệm liên tục” mà Bồ Tát Đại Thế Chí đã dạy chúng ta. Đây chính là ý nghĩa mà “Trung Trụ” biểu thị. “Tịnh niệm”, niệm là niệm Phật. Niệm Phật không nhất định phải niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là niệm Phật. Niệm không ra tiếng, thông thường chúng ta gọi là “Kim Cang trì”. Niệm không ra tiếng thì không mệt. Ngoài ra còn có một cách hoàn toàn niệm thầm, miệng cũng không động, trong lòng đích thực rõ ràng là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật… không có gián đoạn. Trong lòng có Phật, một câu Phật hiệu tiếp một câu Phật hiệu, quyết định không dễ dàng gì xen tạp, tất cả pháp xuất thế gian cũng không xen tạp. Không những tất cả pháp thế gian không xen tạp, mà thân tâm thế giới tất cả buông bỏ. Niệm Phật như vậy liền cảm ứng, như vậy mới thật công phu.

Pháp sư học giảng Kinh, khi đang niệm Phật thì không nên nghĩ đến việc bạn học giảng Kinh, cũng không nên nghĩ tưởng Kinh văn phải giảng như thế nào, không nghĩ tưởng bất cứ thứ gì, chỉ là một câu Phật hiệu niệm đến cùng thì bạn niệm Phật mới tốt được; Phật hiệu niệm xong rồi liền có cảm ứng, bạn liền được Phật lực gia trì, bạn liền khai mở trí tuệ. Vạn lần không nên một mặt niệm Phật, một mặt nghĩ đến cách giảng Kinh này phải thế nào, phải nghiên cứu ra sao? Vậy thì hỏng rồi, Phật niệm không được tốt, Kinh cũng không nghiên cứu được xong, hai bên đều bị hỏng hết. Đó gọi là không khéo dụng tâm. Người khéo dụng tâm thì dùng một tâm, khi chúng ta niệm Phật thì một lòng niệm Phật, khi nghiên cứu thì một lòng nghiên cứu. Ta mở quyển Kinh ra, xem qua chú giải, đang ngồi nghiên cứu, vào lúc này thì tuyệt đối không niệm Phật, tâm phải chuyên nhất làm một công việc. Ở trên Kinh Phật nói: “Để tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng xong”. Chúng ta phải hiểu được ý của Phật, phải để tâm vào một chỗ, y theo cách dạy này của Phật thì quyết định có thành tựu.

Tôi mạnh hơn so với các vị một chút, các vị cũng cảm nhận được có một vài điểm không như tôi. Tôi mạnh chính là tôi biết để tâm vào một chỗ, không luận làm việc gì, nhất định là một lòng mà làm, quyết định không phải là hai tâm, đang làm việc này lại nghĩ đến việc kia, tôi thì không làm như vậy, cho nên bạn thấy tôi làm được rất nhanh, tôi làm được rất tự tại. Việc này ở trên Kinh Phật có rất nhiều lý luận, văn tự. Tôi làm ra cho các vị xem, các vị phải biết nhìn. Tôi được như vậy là do trước kia lão sư Lý làm cho tôi xem, Chương Gia Đại Sư làm cho tôi xem, tôi nhìn dáng vẻ của các Ngài mà học tập. Tôi thân cận với Đại Sư Chương Gia ba năm, thân cận với lão sư Lý mười năm, mỗi ngày tôi nhìn thấy các Ngài. Lão sư cũng thường hay chăm sóc tôi, có chỗ nào sai lầm thì giúp tôi sửa đổi.

Chúng ta chính mình tâm chánh, ngôn chánh, hạnh chánh, người bên ngoài có nói thế nào cũng không có quan hệ gì. Mọi người thấy sai rồi, ngộ nhận rồi, đây là điều luôn không thể tránh khỏi. Thế gian có một người nào có thể vừa lòng tất cả mọi người? Không thể nào, Phật cũng không làm được. Thế gian này có bao nhiêu người mắng Thích Ca Mâu Ni Phật, có bao nhiêu người mắng Phật A Di Đà? Chúng ta nghe đã quá nhiều. Phật cũng có người mắng, chúng ta bị người khác mắng thì có quan hệ gì chứ? Phật tiếp nhận người ta mắng, chúng ta cũng phải tiếp nhận người ta mắng, không nên có một câu biện bạch. Chúng ta đối với người thì chân thành, cung kính, tán thán. Người ta hủy báng chúng ta, nhục mạ chúng ta, hãm hại chúng ta, chúng ta tán thán họ, cảm ân họ, cảm tạ họ. Đó là thật, vì họ tiêu nghiệp chướng cho chúng ta, tăng phước huệ cho chúng ta, cho nên có người nào không phải là ân nhân của ta? “Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường”, người thường giữ cái tâm này là Bồ Tát Trung Trụ. Cho nên, chúng ta phải học “tịnh niệm liên tục”. Trong cái niệm này là tịnh, “tịnh” chính là quyết định không có xen tạp. “Tương tục” là công phu không gián đoạn. Từ nơi công phu mà nói, có thể đạt đến được “Tức Niệm Ly Niệm” thì công phu của bạn liền có kết quả, công phu của bạn liền được thuần thục.

Tức Niệm Ly Niệm chính là người thông thường hay nói “niệm mà không niệm, không niệm mà niệm”. Không niệm cùng niệm là một, không phải là hai. Đây gọi là vào pháp môn không hai. Pháp môn không hai là cảnh giới của Pháp Thân Đại Sĩ. Bạn có thể vào được pháp môn không hai thì thoát khỏi mười pháp giới (không cần nói sáu cõi, mà siêu việt luôn mười pháp giới), biết được tất cả pháp thế xuất thế gian đều là pháp bất nhị, biết được trên Kinh Phật nói với chúng ta là lời thật. (Chỗ này tôi chỉ nói ra một ít, vì phía sau còn giảng rất tỉ mỉ).

Tận hư không khắp pháp giới là chính mình. Phàm phu chúng ta không biết, phàm phu luôn cho rằng chính mình cùng người khác là đối lập. Không phải như vậy, mà tận hư không khắp pháp giới là chính mình mới là chân tướng. Bạn có thể thấy được, bạn có thể khẳng định, việc này ở trên Kinh Phật nói là bạn chứng được Pháp Thân Thanh Tịnh. Chứng được Pháp Thân Thanh Tịnh thì liền thành Phật, mức độ thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát thì thành Phật, “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Họ thành Phật thật, không phải Phật giả, trong Phán giáo, Đại Sư Thiên Thai nói là “Phần Chứng Tức Phật”. Tuy là chưa viên mãn, chỉ là Phần Chứng Tức Phật, nhưng họ chứng là thật, không phải giả. Họ chứng được cái gì? Họ thừa nhận, họ khẳng định tận hư không khắp pháp giới đều là chính mình, cho nên tâm đại từ bi sanh khởi ra. Đại từ bi là đối với tất cả chúng sanh không có điều kiện. “Vô duyên đại từ” (duyên là điều kiện), đại từ bi không hề có điều kiện. “Từ” là quan tâm, thương yêu, tôn trọng, toàn tâm toàn lực chăm sóc, đối đãi với tất cả chúng sanh không có điều kiện.

“Đồng thể đại bi”, bi là nhìn thấy tất cả chúng sanh có khổ nạn thì giúp cho họ thoát ly khổ nạn, thoát khỏi khó khăn không có điều kiện, vì sao vậy? Vì đồng thể, bao gồm tất cả chúng sanh cùng đồng một thể với chính mình. Một tâm một pháp giới, cho nên pháp giới gọi là Nhất Chân. Bồ Tát Trung Trụ biểu thị ở đây ý nghĩa rất sâu, đó là lý, đó gọi là nhìn thấu.

Vị thứ mười lăm, Chế Hạnh Bồ Tát

Đây là nói hành, nói sự. Hành là hành vi sinh hoạt của chúng ta. Hành vi sinh hoạt của chúng ta làm sao không có sai lầm? Bạn chính mình phải biết tiết chế. “Chế” này chính là sửa lỗi tự làm mới, biết được chính mình sai rồi thì lập tức sửa đổi, đó là chân thật tu hành. Thánh hiền xưa của chúng ta dạy rất hay: “Người không phải thánh hiền thì sao không có lỗi”. Bạn không phải thánh nhân, không phải hiền nhân, thì bạn làm sao mà không có lỗi lầm? Mỗi người đều có lỗi lầm, “lỗi mà có thể sửa, vậy thì còn việc gì tốt hơn?”. Có thể sửa lỗi chính là Bồ Tát, không chịu sửa lỗi thì là phàm phu, cho nên biết lỗi chính là giác ngộ, sửa lỗi chính là công phu. Do đó, chỗ này “Trung Trụ” là biểu thị học vấn, “Chế Hạnh” là biểu thị công phu.

Chúng ta ở ngay trong cuộc sống thường ngày phải tuân thủ nguyên tắc này mà trải qua ngày tháng, không trái với nguyên tắc này mà làm việc. Không luận là từ nơi công việc nghề nghiệp nào, tuân thủ nguyên tắc này, nắm chắc nguyên tắc này thì chính là chúng ta trải qua đời sống của Bồ Tát.

Vị thứ mười sáu, Giải Thoát Bồ Tát

“Giải Thoát” là ngay hiện tại bạn được tự tại, được giải thoát. “Giải” là giải trừ được phiền não, giải trừ được lo lắng, giải trừ được vướng bận, thoát khỏi tất cả ưu-bi-khổ não ngay hiện tại. Cho nên các vị có thể thể hội được, có thể quan sát được rất rõ ràng là giáo học của Phật pháp đích thực là có thể giúp đỡ chúng ta hiện tiền đạt được một đời hạnh phúc, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi thành công, xã hội an lành, mọi người tôn kính lẫn nhau, lễ nhường lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau cùng tồn tại phát triển, xã hội thái bình, quốc gia giàu mạnh, thế giới hòa bình. Giáo học của Phật pháp thực tiễn vào ngay chỗ này. Thế giới ngày nay của chúng ta, các lãnh đạo chính trị gia, khoa học gia, công thương nghiệp, thậm chí đến các lãnh đạo giới học thuật, giới tôn giáo đều hy vọng đạt đến mục tiêu này, nhưng họ không có cách gì đạt đến. Ai mà không muốn chứ? Làm gì biết được đạo lý phương pháp này đều ở trên Kinh Đại thừa?

Vào năm 1970, nhà triết học lịch sử nước Anh đã chỉ điểm cho tất cả mọi người trên thế giới một con đường đi, ông nói: “Muốn cứu vãn thế kỷ 21 đạt đến hòa bình cùng tồn tại, chỉ có học thuyết của nhà Nho cùng Phật pháp Đại thừa”. Đây là lời phát ra từ miệng của một người nước ngoài. Con người này thật cừ khôi, ông có học vấn, có kiến thức, ông nhìn thấy được thế kỷ 21 là một xã hội rất phức tạp. Vào ngày trước, mỗi một quốc gia, khu vực đều đóng cửa, đôi bên không hề qua lại với nhau, mỗi người trải qua ngày tháng thái bình của mỗi người, mỗi người có phạm vi nhỏ, khung trời nhỏ của mỗi người. Thế kỷ 21, theo sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên thông tin phát triển, bạn tiếp xúc rất nhiều. Bạn thấy, ngày nay trong nhà mỗi một người đều có vi tính. Ở nước Mỹ, học sinh tiểu học đều dùng vi tính lên lớp. Mở vi tính lên thì tin tức của toàn thế giới đều ở ngay trước mắt bạn. Mặt tiếp xúc của bạn quá lớn! Giao thông thuận tiện, lúc nào cũng có thể đi du lịch khắp nơi trên thế giới, bạn có thể chính thức tiếp xúc mặt đối mặt. Thế nhưng khi vừa tiếp xúc thì có xung đột, do văn hóa không đồng, quan niệm bất đồng, phương thức đời sống khác nhau, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, cho nên đột nhiên khi vừa tiếp xúc thì luôn là không thích ứng. Làm thế nào có thể giải quyết vấn đề này? Học thuyết nhà Nho cùng Phật pháp Đại thừa chân thật có thể giải quyết những vấn đề này.

Nước Anh vào năm trước đã đem Phật học đưa vào giáo trình trường học. Trong giáo trình tiểu học, trung học, đại học đều có Kinh Phật. Đó là quốc gia chính thức ra lệnh làm. Nước Anh là một quốc gia Ki-tô giáo, họ dẫn đầu làm trước, còn chúng ta ngày nay mới làm là rơi lại phía sau của người ta rồi. Hiện tại Úc châu mở hội thảo, họ cũng là dẫn đầu thế giới. Họ tập hợp nhân vật lãnh đạo giới tôn giáo, giới học thuật, chuyên gia học giả đến thảo luận nghiên cứu môn học vấn thích ứng thế kỷ 21. Tôi đã tham dự qua buổi hội thảo ở Úc châu và thăm viếng qua trường đại học của họ. Đại học cũng rất chú trọng đến vấn đề này, bởi vì chính sách hiện tại của Úc châu là mở rộng di dân, công dân từ các nơi khác nhau trên thế giới di dân đến đó, bối cảnh văn hóa, tư tưởng tín ngưỡng đều không giống nhau, họ phải cùng người Úc châu chung sống với nhau trong một xã hội, cho nên mục tiêu của họ là làm thế nào có thể gạt bỏ được những hiểu lầm, những ngăn cách trong đó, đạt đến hợp tác lẫn nhau cùng tồn tại phát triển. Viện trưởng của học viện đến hỏi tôi, tôi cũng nói với họ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Họ nghe rồi rất hoan hỉ, rất hy vọng tôi đến mở lớp.

Tôi bị Lý Mộc Nguyên giữ lại, ông ấy ở nơi đây xây dựng đạo tràng to lớn thế này, tu sửa lầu bốn cùng lầu năm phải tốn hơn một trăm sáu mươi vạn, nhiều tiền đến như vậy. Tôi chú trọng đạo nghĩa, tôi không tính lợi hại. Tôi nói đạo nghĩa, tôi không có lỗi với ông ấy. Hoàn cảnh bên ngoài có tốt hơn, tôi cũng không cách gì, tôi phải đi theo cùng ông ấy. Nếu như có thể lưỡng toàn kỳ mỹ thì đương nhiên là quá tốt; không thể lưỡng toàn kỳ mỹ thì đại học Úc châu tôi vẫn phải xả bỏ, vẫn phải đến nơi đây. Chúng ta đã có mười năm quan hệ rồi, luôn có một phần ân đức nghĩa tình trong đó. Quyết định không thể thấy trăng quên đèn, chúng ta không được làm những việc như vậy, vì làm như vậy là chúng ta để lại cho mọi người trong xã hội một tấm gương không được tốt, đó là tạo thành động loạn bất an cho xã hội. Chúng ta giữ lấy đạo nghĩa, lợi ích có tốt hơn, chúng ta cũng không động tâm. Đó là kiến lập một gương tốt chính diện cho xã hội, mọi người đều không ham thích danh vọng lợi dưỡng, đều không ham thích vinh hoa phú quý. Chúng ta nói đạo, nói nghĩa thì xã hội này sẽ an định hòa bình, khu vực này mọi người đều sẽ trải qua được rất hạnh phúc. Điểm này là quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Trong Kinh giáo, Phật dạy chúng ta những điều này, chúng ta làm sao có thể trái phạm?

“Giải thoát” chính là đạt được quả báo của hiện tại, hướng đến xa mà nói là quả báo của vị lai, đó chính là vĩnh viễn thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Không những thoát khỏi sáu cõi luân hồi, siêu việt mười pháp giới, mà còn chứng được Pháp Giới Nhất Chân. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là Pháp Giới Nhất Chân, không những là Nhất Chân, mà còn là Nhất Chân bên trong của Nhất Chân, thù thắng không gì bằng, cho nên mười phương chư Phật tán thán. Chúng ta ở ngay trong một đời này có thể gặp được thì phải hạ quyết tâm, quyết định phải nắm lấy. Nếu muốn nắm lấy thì nhất định phải y giáo phụng hành, vậy thì lời Phật dạy không thể không thấu triệt. Mỗi ngày đọc bộ Kinh này, phải lý giải thấu triệt, phải đem tập khí phiền não từ vô lượng kiếp đến nay của chính mình vứt bỏ hết, y giáo phụng hành.

Năm trước tôi giảng bộ Kinh này, khi giảng đến ba bậc chín phẩm, tôi có một cách nói không giống như cách nói của người xưa. Cách nói của tôi dễ hiểu hơn. Tôi nói, nếu chúng ta lấy phần trăm để nói, nếu như những điều Phật dạy trong bộ Kinh này bạn làm đến được 100%, mỗi câu mỗi chữ bạn đều làm đến được, một chút cắt bỏ cũng không có, thì bạn nhất định được thượng thượng phẩm vãng sanh. Vì sao vậy? Tâm-Nguyện-Giải-Hạnh của bạn hoàn toàn tương ưng với A Di Đà Phật (Tâm-Nguyện-Giải-Hạnh của Phật A Di Đà đều ghi chép ở trên bộ Kinh này), thì đương nhiên bạn vãng sanh thượng thượng phẩm. Nếu như trong bộ Kinh này ta không thể hoàn toàn làm đến được 100%, mà làm đến được 90% (còn có mười phần chưa làm được), vậy bạn vãng sanh là thượng phẩm trung sanh. Nếu như 90% mà bạn vẫn không làm được, bạn chỉ có thể làm đến được 80%, vậy thì giáng xuống một bậc là thượng phẩm hạ sanh. Nếu như 80% vẫn không làm được, bạn còn có thể làm được 70% thì trung phẩm thượng sanh. Cứ như vậy mà hướng xuống dưới, hướng xuống đến hạ phẩm hạ sanh thì phải làm đến hai mươi phần trăm, cũng chính là nói, những gì trên Kinh đã nói bạn phải làm đến được 20%. Nếu không làm đến được 20% thì đó chỉ là kết duyên với Phật A Di Đà, đời này không thể đi được. Việc này chính là người xưa nói, bạn mỗi ngày niệm Phật “đau mồm rát họng cũng chỉ uổng công”, đời này không thể đi được, phải đợi đến đời sau. Đời nào có thể vãng sanh? Xem thử bạn ngay trong một đời nào có thể làm đến được 20% thì bạn có thể vãng sanh hạ hạ phẩm. Cách nói này của tôi dễ hiểu hơn so với cách nói trong Quán Kinh. Các vị thử nghĩ xem cũng có đạo lý, không phải không có đạo lý. Tôi dùng biện pháp này để phân tích chín phẩm vãng sanh.

Vì sao chúng ta không chịu nỗ lực làm đến được 100%? Nếu bạn cho rằng làm đến được 100% là khó khăn, vậy thì khó ở chỗ nào? Không có khó khăn! Khó khăn chân thật là bạn không chịu buông bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; bạn không biết được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là giả, toàn là không. Bạn biết được rồi thì tại vì sao không buông bỏ? Bạn chân thật buông bỏ thì thượng thượng phẩm vãng sanh. Việc này ngay trong một đời này chúng ta phải tranh thủ, những thứ khác đều là giả. Bạn làm quốc vương ở thế gian này hay làm thiên vương cũng đều là giả, đều không phải thật, vinh hoa phú quý cuối cùng cũng không thể giữ được. Tuổi thọ Thiên vương có dài một chút cũng vẫn phải chết, chết rồi thì vẫn phải chịu luân hồi. Đó chính là bạn không có trí tuệ.

Kinh văn: “Nhi Vi Thượng Thủ”.

Đoạn kinh văn trên nêu ra mười sáu vị Bồ Tát, tôi đã giới thiệu tương đối tỉ mỉ mười sáu vị Bồ Tát này rồi. Danh hiệu của mỗi một vị Bồ Tát bạn đã hiểu rõ rồi thì bạn có thể học tập với các Ngài. Tất cả ưu điểm, sở trường của mười sáu vị Bồ Tát này chúng ta thảy đều học được thì chúng ta chính là Bồ Tát viên mãn, đức hạnh của mỗi vị Bồ Tát ta thảy đều có, thảy đều đầy đủ. Không phải chúng ta học một vị, hai vị, mà thảy đều học hết mười sáu vị. Mười sáu vị Bồ Tát đều là lão sư của chúng ta, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực học tập với các Ngài. Sự biểu thị của mười sáu vị Bồ Tát này chính là Kinh văn của toàn Kinh, cho nên danh hiệu của Bồ Tát ở ngay đây là tổng cương lĩnh của toàn Kinh. Do đây có thể biết, từ ngay đoạn Kinh văn này, lão cư sĩ Hạ Liên Cư phân thành một phẩm là rất có đạo lý. Biểu pháp của Tỳ Kheo Bồ Tát phía trước là biểu pháp thông thường của Đại thừa, là biểu pháp chung, là đại biểu toàn thể Phật pháp, biểu pháp nghiêng nặng về pháp môn Tịnh Độ. Biểu thị của mười sáu vị Bồ Tát tại gia này là bổn Kinh rất thiết yếu. Nội dung của bổn Kinh chính là mười sáu cương lĩnh.

Trích đoạn trong:
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ
TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 9-10

Bài viết liên quan

Kinh Vô Lượng Thọ phẩm 7: Quyết Thành Chánh Giác tập 2

Thiện Quang

Phổ Hiền Hạnh Nguyện: Thỉnh Chuyển Pháp Luân

Thiện Quang

Hoa Nghiêm Tam Muội là gì?

Thiện Quang

Tám Tướng Thành Đạo phần 1

Thiện Quang

Bố thí bảy báu của Đại thiên thế giới không bằng một câu pháp

Thiện Quang

Chúng ta khởi tâm động niệm tạo tác tội nghiệp có hai loại

Thiện Quang

Vì sao A Di Đà Phật có thể phát ra 48 nguyện?

Thiện Quang

Niệm A Di Đà Phật là pháp sám hối hiệu quả nhất

Thiện Quang

Chúng sanh dựa vào cái gì để vãng sanh thế giới Cực Lạc?

Thiện Quang

Leave a Comment