Niệm Phật 4 chữ hay 6 chữ thì có thể vãng sanh?

Niệm Phật 4 chữ hay 6 chữ? Nếu nói sáu chữ mới có thể vãng sanh còn bốn chữ thì không được, vậy câu nói này là hoàn toàn sai rồi.

Các vị đồng học, xin chào mọi người. Ở đây có hai vấn đề. Vấn đề thứ nhất, người hỏi vấn đề này không viết tên, người này hỏi về pháp môn Bổn Nguyện.

Tôi xin đọc: “Trước mắt ở khu Triều Dương của Bắc Kinh, đa số mọi người đều đang tu pháp môn Bổn Nguyện, đồng thời nói niệm Phật nhất định phải niệm sáu chữ thì mới có thể vãng sanh, niệm bốn chữ không được. Hơn nữa pháp môn Bổn Nguyện là dựa vào tha lực, không phải dựa vào tự lực. Cách tu như vậy có phải là như pháp hay không?”.

Pháp môn Bổn Nguyện là do người Nhật Bản đề xướng, ở Đài Loan cũng rất thịnh hành. Pháp môn này không phải do người cận đại phát minh, cổ Đại đức cũng dựa vào nguyện thứ 18 là đại nguyện căn bản chuyên tu chuyên hoằng của Kinh Vô Lượng Thọ. Chúng ta đã đọc Kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần. Tôi cũng đã giảng 11 lần rồi. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, mỗi một nguyện đều bao gồm 47 nguyện còn lại, nguyện nguyện đều như vậy, quyết không phải là mỗi nguyện đều độc lập nhau. Điểm này các vị đồng tu nhất định phải nên biết.

Trong mỗi một nguyện đều hàm nhiếp viên mãn 47 nguyện kia, cho nên mới gọi là bổn nguyện. Nhất định không phải là chỉ có nguyện thứ 18, còn những nguyện khác thì không cần. Nếu chỉ có nguyện thứ 18 những nguyện khác đều không cần thì e rằng không thể vãng sanh. Nguyên nhân là gì? Nguyện thứ 18 là chuyên niệm, không có nói phát Bồ-đề tâm. Nguyện thứ 19 là phát Bồ-đề tâm. Bạn hãy xem trong tam bối vãng sanh nói với chúng ta: “Phát Bồ-đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” thì mới có thể vãng sanh. Nếu không phát Bồ-đề tâm mà nhất tâm chuyên niệm thì không thể vãng sanh.

Nếu nói nhất định phải niệm sáu chữ, niệm bốn chữ không được thì những lời này không đáng tin. Vì sao vậy? Tổ sư đời thứ tám của Tịnh Độ tông Trung Quốc là Liên Trì Đại sư. Không những là Tịnh Tông chúng ta mà Tông Môn hay Giáo Hạ khi nhắc đến Đại sư Liên Trì thì ai mà không tôn kính. Đại sư Liên Trì niệm Phật là niệm bốn chữ.

Có người thỉnh giáo với Đại sư, hỏi khi Ngài dạy người ta niệm Phật thì dùng cách niệm như thế nào? Ngài nói: “Tôi dạy người ta niệm Phật là niệm sáu chữ.” Vậy Đại sư tự mình niệm thì niệm như thế nào? Ngài nói “Tôi tự mình niệm thì chỉ niệm bốn chữ”. Vì sao vậy? Ngài nói: “Tôi đời này phải quyết cầu sanh Tịnh Độ”. Bởi vì trong kinh điển nói chấp trì danh hiệu, mà danh hiệu này chỉ có bốn chữ. “A Di Đà Phật” là danh hiệu. “Nam mô” nghĩa là quy y, nghĩa là cung kính, là lời nói khách sáo. Tôi quyết định phải cầu vãng sanh nên những lời khách sáo xin được miễn hết.

Vậy vì sao Ngài dạy người ta niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc có tâm muốn cầu vãng sanh, nên thêm một sự quy y, thêm một sự cung kính, tốt, kết pháp duyên với A Di Đà Phật, là ý như vậy.

Việc này chứng tỏ, nếu bạn chân thật hạ quyết tâm, cuộc đời này nhất định phải đi thì những lời khách sáo đều không cần phải nói nữa. Bốn chữ này là chấp trì danh hiệu, trên danh hiệu không có thêm hai chữ “Nam mô”. Cái ý nghĩa này nhất định phải hiểu. Cho nên nói sáu chữ mới có thể vãng sanh còn bốn chữ thì không được, vậy câu nói này là hoàn toàn sai rồi.

Trên thực tế sáu chữ có thể vãng sanh vậy thì bốn chữ càng có thể vãng sanh hơn. Nếu bạn hỏi nguyên nhân vì sao thì Liên Trì Đại sư nói đến lúc lâm chung càng đơn giản sẽ càng hiệu quả. Niệm bốn chữ thì đơn giản hơn là niệm sáu chữ. Mấu chốt của việc vãng sanh là ở một hơi thở cuối cùng, niệm sau cùng là A Di Đà Phật thì người này nhất định được vãng sanh. Một niệm sau cùng nếu để luống qua thì cuộc đời này uổng phí rồi, đành phải đợi cơ hội lần sau. Đạo lý này nhất định phải hiểu.

Kinh không thể không đọc, không thể không giải (hiểu), không những phải giải, bạn xem Phật trong kinh Đại Thừa thường nói với chúng ta phải “thâm giải nghĩa thú”, phải giải được sâu, phải giải được thấu triệt thì nghi hoặc của bạn liền đoạn ngay, đoạn nghi sanh tín, như vậy mới có thể vãng sanh.

Tịnh Tông dựa vào tha lực nhưng cũng phải dựa vào tự lực, không phải là hoàn toàn dựa vào tha lực. Nếu hoàn toàn dựa vào tha lực thì câu Phật hiệu cũng đâu cần phải niệm. Chúng ta niệm câu Phật hiệu này là tự lực. Tự mình phát nguyện tu học như lý như Pháp, đây là dựa vào tự lực. Tự lực của chúng ta không có năng lực đoạn phiền não, đây là thật, nhưng tự lực thì nhất định phải điều phục phiền não. Cái gì là phiền não? Nghi hoặc chính là phiền não.

Chúng ta thường nói tự tư tự lợi, tham sân si mạn, danh văn lợi dưỡng, đây đều là phiền não. Chúng ta dùng câu Phật hiệu này để chế phục phiền não. Phiền não đích thực là chưa đoạn, nhưng công phu này có thể chế phục được, nó không khởi tác dụng, không khởi hiện hành. Như vậy thì lúc lâm chung mới có thể khởi được tác dụng cảm ứng đạo giao với A Di Đà Phật, để Phật đến tiếp dẫn. Đây gọi là đới nghiệp vãng sanh. Cho nên kinh luận không thể không học tập. Ý nghĩa của bổn nguyện phải hiểu cho rõ ràng.

Vấn đề thứ hai là: “Sách Bồ-tát Đạo Thứ chủ trương rằng, chỉ dựa vào niệm Phật thì không thể đảm bảo việc vãng sanh. Sách Bồ-tát Đạo Thứ là nền tảng, học cái này xong rồi học Phật thì sẽ đắc lực, không học Bồ-tát Đạo Thứ thì niệm Phật cũng không đắc lực. Vì niệm Phật không đắc lực nên rất nhiều người đã đổi sang học Bồ-tát Đạo Thứ”. Tôi nghĩ đây là đang nói đến sách Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, đại khái chắc là đang nói bộ sách này. “Xin hỏi như vậy có như pháp hay không? Có phải là đang lãng phí thời gian hay không?”.

Câu cuối cùng này bạn nói thật không sai. Cách làm này của họ không thể nói là sai, thế nhưng đúng là lãng phí thời gian. Đây là thật. Nếu có thời gian, bạn còn trẻ tuổi, ngày tháng còn dài thì có thể bắt đầu hạ thủ từ Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận. Sau đó lại chọn tu một pháp môn nào đó. Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận cũng thuộc về nền tảng tu học Đại Thừa. Bộ sách này là của Mật Giáo Tây Tạng. Tính chất của nó cùng với “Tứ Giáo Nghi” của Thiên Thai và “Ngũ Giáo Nghi” của Hiền Thủ là tương đồng, là một pháp tu học của Phật học cơ sở, là chiếu theo các tầng bậc từng bước từng bước mà đi lên, cần phải có một thời gian tương đối dài. Nếu chúng ta cảm thấy hiện tại tai nạn đang ở trước mắt rồi thì không kịp nữa.

Các vị hãy xem Vãng Sanh Truyện, hãy xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, lại đi dò hỏi xem những người niệm Phật vãng sanh trong 20-30 năm gần đây, có rất nhiều người cái gì cũng đều không học. Các vị xem Ảnh Trần Hồi Ức Lục, tự truyện của Pháp sư Đàm Hư. Đây là một vị cao tăng đại đức của Trung Quốc. Trong đây Ngài đã kể cho chúng ta một câu chuyện về lão Hòa Thượng Đế Nhàn có một đồ đệ niệm Phật là thợ vá nồi.

Con người này căn tánh rất ngu độn, không có trình độ văn hóa, chưa từng đi học, không biết chữ. Tuổi trung niên cuộc sống vô cùng khổ cực. Ông tìm đến lão Hòa Thượng Đế Nhàn để xuất gia. Lão Hòa Thượng và ông cùng lớn lên trong một ngôi làng, là bạn bè lúc nhỏ. Sau khi ông tìm đến lão Hòa Thượng, do lúc nhỏ có giao tình nên Ngài cũng không cách nào từ chối. Sau đó Ngài đã cho ông xuất gia. Xuất gia rồi lão Hòa Thượng nói với ông: “Ông tuổi tác đã lớn như vậy rồi. Học kinh giáo không kịp nữa. Nếu sống trong tự miếu học pháp khí, học năm thời khóa sớm tối thì ông cũng không đủ năng lực”. Sau cùng phải làm thế nào đây? Ngài tìm cho ông một ngôi miếu nhỏ ở dưới quê, dạy ông ấy một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Con người này vô cùng biết nghe lời, lão Hòa Thượng bảo ông một câu Phật hiệu này cứ thật thà mà niệm, vạn duyên buông xuống, việc gì cũng không cần phải nghĩ đến. Một ngày từ sớm đến tối chỉ niệm một câu A Di Đà Phật này. Niệm mệt rồi thì ông hãy nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong rồi thì ông lại tiếp tục niệm. Ông đã niệm được như vậy ba năm. Biết trước ngày giờ, đứng mà vãng sanh.Sau khi vãng sanh còn đứng ở đó suốt ba ngày. Người ta đến Quan Tông Tự để mời lão Hòa Thượng Đế Nhàn đến lo hậu sự cho ông.

Đây là một thí dụ trong thời cận đại, những thí dụ giống như vậy thì rất nhiều. Khi tôi ở Đài Loan, sự việc này đại khái cũng là khoảng 30 năm về trước. Tôi cũng đã từng nói qua rất nhiều lần. Làng Tướng Quân ở Đài Nam có một bà lão. Bà cũng không biết cái gì cả, thần linh nào bà cũng bái lạy, tâm địa vô cùng thiện lương. Con dâu bà bảo bà không nên bái lạy những vị thần này nữa mà hãy chuyên niệm A Di Đà Phật. Trong nhà làm cho bà Phật đường, bà đại khái cũng niệm được ba năm, đứng mà vãng sanh.

Những người này đều không học qua Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận. Nếu bạn hỏi Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận thì bà sẽ không hiểu đây là gì, nhưng bà có năng lực đứng mà vãng sanh. Hơn nữa thời gian niệm Phật chỉ có ba năm.

Hai người mà tôi vừa kể thời gian niệm Phật đều là ba năm, có được thành tích tốt như vậy. Ông thợ vá nồi niệm Phật vãng sanh, lão Hòa Thượng Đế Nhàn bội phục ông đến cực điểm. Ông chân thật đã thành tựu. Lão Hòa Thượng tán thán ông, Ngài nói tất cả đạo tràng lớn trong Tứ Đại Danh Sơn từ Phương trượng trụ trì cho đến những Pháp sư giảng kinh đều không ai bằng ông. Đây là thật, không ai có thể so sánh được với ông. Chỉ ba năm, cái gì cũng buông xuống, cái gì cũng không hiểu, thật thà niệm một câu Phật hiệu.

Những sự việc này đều chân thật bày ra trước mắt chúng ta. Chúng ta nếu không tin tưởng, không thể giác ngộ thì cũng hết cách. Cho nên tu học Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận là lãng phí thời gian. Bạn còn trẻ thì được, không có vấn đề gì. Tuổi tác mà lớn thì không được rồi. Nói cách khác, từ 40 tuổi trở lên thì chúng ta nên biết thọ mạng của mình không nhiều, phải biết trân quý. Trẻ tuổi thì được, lãng phí một chút thời gian cũng không hề gì….

Trích đoạn trong:
THÁI THƯỢNG CẢM ỨNG THIÊN
Người giảng: Lão Hòa Thượng – Pháp Sư Tịnh Không
Tập 123

Có thể bạn quan tâm

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phật Pháp không có Bản Quyền, mọi sự sao chép từ Pháp Vi Diệu đều được hoan nghênh!